(TG) - Trong lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, có hai lần thuật ngữ tuyên giáo được sử dụng làm tên gọi cho một cơ quan tham mưu của Đảng và theo đó thuật ngữ công tác tuyên giáo ra đời, tồn tại cho đến ngày nay.
Hiện nay, một số cấp ủy
và ngay cả những người
làm công tác tuyên giáo
còn nhận thức rất khác nhau về
công tác tuyên giáo, thậm chí
còn có sự nhầm lẫn giữa công tác
tuyên giáo với công tác tư tưởng,
công tác tuyên giáo với cơ quan
tuyên giáo. Sự thiếu thống nhất
này gây nhiều trở ngại trong quá
trình nhận thức, triển khai thực
hiện công tác tuyên giáo cũng
như trong đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ và nghiên cứu khoa học
về công tác tuyên giáo. Muốn
hiểu đúng về công tác tuyên giáo
không thể duy danh định nghĩa
mà cần phải tiếp cận từ góc độ
lịch sử và phương thức lãnh đạo
của một đảng cầm quyền.
Khi chưa giành được chính
quyền, nhiệm vụ trọng tâm, chủ
yếu của Đảng là tiến hành công
tác tuyên truyền, giáo dục chủ
nghĩa Mác - Lênin, cương lĩnh,
đường lối của Đảng cho cán bộ,
đảng viên và quần chúng để
tạo sự thống nhất về tư tưởng
trong nội bộ Đảng; đồng thời,
giác ngộ, tập hợp nhân dân
dưới ngọn cờ của Đảng. Thực
ra, để có cương lĩnh, đường
lối đúng đắn, trước hết Đảng
phải tổ chức nghiên cứu, nắm
chắc lý luận Mác - Lênin và
thực tiễn Việt Nam trong từng
thời kỳ, từng nhiệm vụ. Những
công việc đó thuộc về công tác
lý luận, hay nói đúng hơn là
công tác nghiên cứu lý luận.
Cùng với công tác nghiên cứu
lý luận, Đảng phải tiến hành
công tác tuyên truyền, giáo
dục chính trị để cán bộ, đảng
viên và nhân dân hiểu biết, tin
tưởng và sẵn sàng theo Đảng
làm cách mạng.
Bên cạnh công tác tuyên
truyền, Đảng tiến hành công
tác cổ động để cổ vũ, động viên,
khích lệ, khơi nguồn động lực để
quần chúng sẵn sàng vượt qua
mọi khó khăn, thử thách, dấn
thân để hiện thực hóa mục tiêu,
lý tưởng của Đảng. Trên thực tế,
tuyên truyền và cổ động luôn
đi cùng với nhau, nhưng tuyên
truyền thiên về cung cấp tri
thức, thuyết phục và xây dựng
niềm tin cho đối tượng, còn cổ
động lại hướng về cổ vũ, động
viên, khích lệ, biến ý chí thành
hành động. Vì vậy, trong nghiên
cứu khoa học người ta phân biệt
tuyên truyền và cổ động là hai
mặt công tác khác nhau.
Công tác nghiên cứu lý luận, công tác tuyên truyền và công
tác cổ động là ba hoạt động có mục đích và phương thức tác
động khác nhau nhưng đều liên quan mật thiết đến quá trình
hình thành, bổ sung, phát triển, truyền bá và biến hệ tư tưởng
thành hành động cách mạng của quần chúng. V.I.Lênin gọi đó là
ba hình thái của công tác tư tưởng (1). |
Các nhà khoa học ở Việt
Nam cũng thống nhất gọi ba
công việc quan trọng đó là công
tác tư tưởng và làm rõ sự khác nhau giữa chúng bằng các công
trình nghiên cứu công phu và
nghiêm túc(2). Cần lưu ý rằng,
công tác tư tưởng khác với cơ
quan, tổ chức làm công tác tư
tưởng. Một công tác có thể được
thực hiện bởi nhiều cơ quan, tổ
chức khác nhau và một cơ quan,
tổ chức có thể làm nhiều công
tác khác nhau.
Về lý luận là như vậy, nhưng
trên thực tế các cơ quan làm
công tác tư tưởng của Đảng
được đặt tên khác nhau phụ
thuộc vào quan niệm và nhiệm
vụ trọng tâm của công tác tư
tưởng ở từng thời kỳ. Khi Đảng
chưa giành được chính quyền,
tuy công tác nghiên cứu lý luận
là tất yếu trong quá trình lãnh
đạo cách mạng nhưng Đảng
chưa có tổ chức chuyên biệt
mà chủ yếu phụ thuộc vào việc
tự nghiên cứu của các đồng chí
lãnh tụ. Trong khi đó, nhiệm vụ
cơ bản lúc này là tuyên truyền,
giáo dục để cán bộ, đảng viên và
nhân dân hiểu rõ Cương lĩnh,
đường lối cách mạng của Đảng.
Vì vậy, ngay từ khi ra đời, Đảng
thành lập Bộ Tuyên truyền, sau
đó đổi thành Ban Tuyên truyền,
Ban Tuyên truyền cổ động, Ban
Tuyên huấn(3)... Tuy tên gọi khác
nhau, nhưng có thể hiểu đây
chính là cơ quan tham mưu,
giúp việc cho Trung ương Đảng
về công tác tư tưởng.
Năm 1959, thuật ngữ công
tác tuyên giáo ra đời. Đây là
một thuật ngữ xuất phát từ
thực tiễn chứ không phải từ
kết quả nghiên cứu khoa học.
Thời điểm đó, do yêu cầu tổ
chức bộ máy lãnh đạo, Trung
ương Đảng quyết định hợp nhất
Ban Tuyên huấn Trung ương và
Ban Văn giáo Trung ương thành
Ban Tuyên huấn Văn giáo Trung
ương, gọi tắt là Ban Tuyên giáo
Trung ương. Từ đây, thuật ngữ
tuyên giáo ra đời và cũng từ đó
phát sinh thuật ngữ công tác
tuyên giáo và cán bộ tuyên giáo.
Đáng chú ý, thuật ngữ công tác
tuyên giáo thời kỳ này chỉ bao
gồm: công tác tư tưởng, văn hóa
văn nghệ, khoa học, giáo dục
của Đảng chứ không trùng khít
hoàn toàn với thuật ngữ công
tác tuyên giáo đang sử dụng
hiện nay.
Năm 1968, Đảng quyết định
tách Ban Tuyên giáo Trung ương
thành Ban Tuyên huấn Trung
ương và Ban Khoa giáo Trung
ương. Từ đó, thuật ngữ công tác
tuyên giáo ít được sử dụng.
Năm 1989, Bộ Chính trị
quyết định hợp nhất Ban Văn
hóa - Văn nghệ Trung ương với
Ban Tuyên huấn Trung ương,
lấy tên là Ban Tư tưởng - Văn
hóa Trung ương. Từ đây, trong
cả lý luận và thực tiễn bắt đầu
xuất hiện thuật ngữ công tác
tư tưởng - văn hóa và có những
nội hàm khác nhau. Có nghiên
cứu cho rằng, công tác tư tưởng
- văn hóa với công tác tư tưởng
chỉ là một, nhưng muốn nhấn
mạnh văn hóa như là một
phương tiện truyền tải nội dung
tư tưởng hoặc văn hóa phải gắn với tư tưởng… Tuy nhiên trên
thực tế, thuật ngữ này chỉ hai
mảng công tác khác nhau trong
một cơ quan của Đảng, bao gồm:
công tác tư tưởng và công tác
văn hóa - văn nghệ.
Năm 2007, Bộ Chính trị ra
quyết định hợp nhất Ban Khoa
giáo Trung ương và Ban Tư tưởng
- Văn hoá Trung ương thành
Ban Tuyên giáo Trung ương. Từ
đây, thuật ngữ công tác tuyên
giáo được sử dụng trở lại cho
đến ngày nay. Tuy nhiên, thuật
ngữ này đã mang một nội dung
mới, khác với thuật ngữ công tác
tuyên giáo ở thập niên 1960.
Để hiểu rõ thuật ngữ công
tác tuyên giáo hiện nay, cần
phải thấy rõ phương thức lãnh
đạo của một đảng cầm quyền. Từ
khi trở thành đảng cầm quyền,
Đảng ta lãnh đạo toàn diện các
lĩnh vực đời sống xã hội: chính
trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa,
khoa học, giáo dục, y tế, thể
thao, an ninh, quốc phòng, đối
ngoại… Sự lãnh đạo của Đảng
đối với các lĩnh vực này gọi là
công tác. Ví dụ, công tác chính
trị, tư tưởng; công tác kinh tế;
công tác văn hóa - văn nghệ;
công tác giáo dục, khoa học…
Sự lãnh đạo của Đảng đối với
các lĩnh vực này bao gồm: việc
xác lập quan điểm, đường lối về
lĩnh vực đó thông qua các nghị
quyết, chỉ thị; tuyên truyền,
quán triệt các nghị quyết, chỉ
thị cho cán bộ, đảng viên nói
chung và cán bộ, đảng viên,
quần chúng công tác trong các
lĩnh vực đó; hướng dẫn, chỉ đạo
các tổ chức đảng cấp dưới và các
cấp chính quyền, đoàn thể cụ
thể hóa các nghị quyết, chỉ thị
của Đảng; kiểm tra, giám sát việc
thực hiện và tiến hành sơ kết,
tổng kết đánh giá việc thực hiện
nghị quyết, chỉ thị của Đảng.
Ngoài ra, Đảng còn thành lập
các tổ chức đảng và bố trí cán
bộ của mình giữ các cương vị
trong các cơ quan quản lý nhà
nước thuộc các lĩnh vực đó, để
bảo đảm cho đường lối của Đảng
được thực thi một cách nghiêm
minh. Đảng muốn lãnh đạo được
các lĩnh vực rộng lớn đó, thì phải
có cơ quan tham mưu, giúp việc.
Đó là lý do của việc xuất hiện các
ban của Đảng có tên gần giống
với tên các bộ, ngành trong cơ
quan nhà nước. Trong quá trình
lãnh đạo của mình, để đảm bảo
hiệu lực lãnh đạo và thực hiện
tinh gọn tổ chức bộ máy, các
ban tham mưu của Đảng liên tục
thay đổi, lúc nhập vào, lúc tách
ra với những tên gọi rất khác
nhau. Đó cũng là lý do thuật ngữ
công tác tuyên giáo có “số phận
thăng trầm” như vậy. Vì thế, nếu
không hiểu được quá trình hình
thành thuật ngữ tuyên giáo, sẽ
rất khó định hình nội dung của
công tác tuyên giáo. Nếu cứ duy
danh định nghĩa thì thuật ngữ
công tác tuyên giáo có thể được
hiểu rất khác nhau(4).
Đây vừa là hoạt động bảo
đảm sự lãnh đạo của Đảng về
lĩnh vực chính trị, tư tưởng
nhưng cũng chính là một hoạt
động lãnh đạo của Đảng. Đảng
tiến hành công tác tư tưởng là
tiến hành nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn làm cơ sở
khoa học để đề ra đường lối cách
mạng đúng đắn. Đảng trực tiếp
và lãnh đạo, chỉ đạo tiến hành
công tác tuyên truyền, cổ động
để bảo đảm sự thống nhất tư
tưởng trong nội bộ, tạo sự đồng
thuận trong xã hội với đường
lối, chủ trương của Đảng, nâng
cao vị thế Việt Nam trên trường
quốc tế, đấu tranh với các tư
tưởng sai trái thù địch, v.v.. Ban
tuyên giáo các cấp là cơ quan
tham mưu giúp việc cho cấp ủy
đảng ban hành nghị quyết, chỉ
thị; hướng dẫn chỉ đạo, tổ chức
thực hiện, kiểm tra và sơ kết,
tổng kết việc thực hiện công tác
tư tưởng của cấp ủy.
Mảng công tác thứ hai của
công tác tuyên giáo là công tác
văn hóa - văn nghệ. Đây là hoạt
động bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng trong lĩnh vực văn hóa -
văn nghệ của đất nước, không đơn thuần chỉ là sử dụng văn
hóa - văn nghệ để tuyên truyền
đường lối, quan điểm của Đảng
như một số người nghĩ. Dĩ
nhiên, trong công tác văn hóa -
văn nghệ có bao hàm công tác tư
tưởng, nhưng không đơn thuần
chỉ có công tác tư tưởng. Quan
trọng nhất của công tác tuyên
giáo là bảo đảm cho lĩnh vực văn
hóa - văn nghệ luôn hoạt động
và phát triển theo đúng quan
điểm, đường lối của Đảng.
Khoa giáo là thuật ngữ viết
tắt các lĩnh vực khoa học, giáo
dục, y tế, thể thao, dân số, kế
hoạch hóa gia đình, chăm sóc bà
mẹ, trẻ em, phòng chống tệ nạn
xã hội, an sinh xã hội… Quốc
gia nào cũng phải chăm lo phát
triển giáo dục, y tế và các vấn
đề xã hội theo các mục tiêu và
đường hướng riêng của quốc gia
đó. Việt Nam thực hiện cơ chế
một đảng cầm quyền, sự phát
triển của lĩnh vực khoa giáo
phải tuân thủ theo đúng Cương
lĩnh, đường lối mà Đảng Cộng
sản Việt Nam đã xác định. Công
tác khoa giáo chính là hoạt động
bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
đối với các lĩnh vực nói trên.
Khác với công tác tư tưởng,
Đảng vừa lãnh đạo nhưng cũng
vừa là người thực hiện, công tác
văn hóa - văn nghệ và công tác
khoa giáo là toàn bộ các hoạt
động bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng trong lĩnh vực văn hóa -
văn nghệ, khoa giáo. Trong đó,
cơ quan tuyên giáo làm công tác
tham mưu giúp cho cấp ủy đảng
ban hành các nghị quyết, chỉ thị
về xây dựng, phát triển văn hóa
- văn nghệ, khoa giáo; hướng
dẫn, tuyên truyền quán triệt các
nghị quyết đó trong các lĩnh vực
liên quan; kiểm tra và sơ tổng
kết việc thực hiện nghị quyết
của Đảng; tham gia ý kiến về bổ
nhiệm, đề bạt cán bộ của Đảng
trong các lĩnh vực đó; giáo dục,
bồi dưỡng văn nghệ sĩ, trí thức…
Công tác tuyên giáo và ban
tuyên giáo là hai thuật ngữ khác
nhau. Công tác tuyên giáo là
công tác tư tưởng của Đảng và
bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
đối với các lĩnh vực văn hóa -
văn nghệ, khoa giáo. Ban tuyên
giáo là cơ quan tham mưu và
nghiệp vụ giúp cho cấp ủy thực
hiện sự lãnh đạo nói trên. Công
tác tuyên giáo không đơn thuần
chỉ có công tác tư tưởng; đồng
thời, công tác tuyên giáo cũng
không làm nhiệm vụ quản lý các
lĩnh vực văn hóa - văn nghệ và
khoa giáo, vì đó là công việc của
các cơ quan nhà nước. Ngoài các
công việc trên, ban tuyên giáo
còn có thể được giao thêm các
nhiệm vụ khác theo yêu cầu của
cấp ủy ở từng địa phương, từng
thời kỳ. Trong cơ quan tuyên
giáo có thể có nhiều bộ phận
khác nhau, nhưng đều phục vụ
cho việc tham mưu, giúp cấp ủy
trong các công tác tư tưởng, văn
hóa-văn nghệ và khoa giáo.
Công tác tuyên giáo là tên gọi
chung của nhiều mảng công tác
khác nhau, nên khó có thể đưa
ra một định nghĩa hoàn chỉnh
mang tính khoa học. Từ sự phân
tích nêu trên, bước đầu có thể
quan niệm: công tác tuyên giáo
là toàn bộ các hoạt động tư
tưởng của Đảng, bao gồm việc
xây dựng, phát triển, truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối, chính
sách của Đảng, Nhà nước cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân;
đồng thời, bảo đảm sự lãnh đạo
vững chắc của Đảng đối với các
lĩnh vực văn hóa - văn nghệ và
khoa giáo./.
Chú thích:
(1) Lương Khắc Hiếu: Nguyên lý
công tác tư tưởng, Nxb. Chính trị
quốc gia, H, 2008, t.1.
(2) Có nhiều công trình như:
Nguyên lý công tác tư tưởng của
Lương Khắc Hiếu; Công tác tư
tưởng của Đào Duy Tùng; Công
tác tư tưởng của Đào Duy Quát
và nhiều luận án, luận văn, bài
báo về vấn đề này.
(3) Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung
ương: Lịch sử công tác tư tưởng -
văn hóa của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, H,
2005, t.1, 2, 3.
(4) Công tác tuyên giáo có thể
được hiểu là công tác tuyên
truyền, giáo dục; công tác tuyên
huấn, khoa giáo; công tác tư
tưởng, khoa giáo…
TS. Lương Ngọc Vĩnh
________________________________
Bài đăng Tạp chí Tuyên giáo số 5/2019