Thứ Tư, 25/9/2024
Giáo dục
Chủ Nhật, 8/4/2012 9:46'(GMT+7)

Chấn hưng giáo dục - một đột phá để phát triển trong chủ thuyết phát triển Việt Nam

Tuy văn kiện Đại hội không sử dụng cụm từ “cải cách giáo dục” nhưng “đổi mới căn bản và toàn diện” thực chất là cải cách. Theo Từ điển tiếng Việt, từ “căn bản” với tư cách danh từ thì có nghĩa là “cái làm nền gốc, cái cốt yếu quy định bản chất của sự vật”, còn với tư cách tính từ thì có nghĩa là “cốt yếu, có tác dụng quy định bản chất của sự vật”(1) . Vậy, “đổi mới căn bản” là đổi mới từ nền tảng, từ cái quy định bản chất của sự vật. Cái làm nên nền tảng, quy định bản chất của giáo dục ấy, chính là triết lý giáo dục, tức là những tư tưởng về sứ mệnh (mục tiêu), vị giáo dục và nguyên lý vận hành của một nền giáo dục cụ thể.

Còn “đổi mới toàn diện” là đổi mới “đầy đủ các mặt, không thiếu mặt nào”(2) , từ hệ thống giáo dục quốc dân đến nội dung, phương pháp giáo dục, quản lý giáo dục và phát triển đội ngũ nhà giáo… Theo chúng tôi, để thực hiện thành công việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, cần thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:

Thứ nhất, đổi mới triết lý giáo dục

Cùng với yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục và xây dựng xã hội học tập, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nêu lên những quan điểm có tính triết lý về giáo dục như sau: Một là, sứ mệnh của giáo dục là nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực bồi dưỡng nhân tài. Hai là, phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu.

Kế thừa các nguyên lý giáo dục: “Học đi đôi với hành”, “Lý luận gắn liền với thực tiễn”, “Giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và xã hội” chỉ đạo hoạt động giáo dục từ Cách mạng Tháng Tám đến nay, chúng tôi cho rằng, giáo dục Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới phải là một nền giáo dục thực học, khai phóng và dân chủ. Dưới đây là nội dung chủ yếu của ba nguyên lý này:

Thực học

Về cơ cấu ngành nghề, thực học có nghĩa là ưu tiên phát triển nguồn nhân lực trong những ngành kinh tế - kỹ thuật có tính ứng dụng cao. Nước ta còn nghèo nên không đủ tiềm lực phát triển đồng bộ, lại là nước đi sau và muốn nhanh chóng bắt kịp các nước đi trước nên không thể phát triển dàn trải. Trong vòng 50 năm tới, cần tập trung đào tạo nhân lực cho những ngành trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, có khả năng tăng cường sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đối với các ngành khoa học cơ bản, bên cạnh việc đáp ứng nhu cầu nâng cao dân trí, chỉ cần đầu tư đào tạo số lượng ít những người thực sự có năng khiếu, sở trường để bồi dưỡng nhân tài.

Về nội dung dạy và học, thực học có nghĩa là từ bỏ những kiến thức thuần tuý sách vở, hàn lâm, tập trung vào việc hình thành những tri thức và kỹ năng thiết thực đối với sản xuất, kinh doanh và đời sống.

Về phương pháp dạy và học, thực học có nghĩa là tăng cường thời gian thực hành cho người học, gắn kết trường học với cơ sở nghiên cứu khoa học và đơn vị sử dụng lao động để người học có điều kiện vừa học vừa làm.

Dân chủ

Trên phương diện tổ chức hệ thống giáo dục, dân chủ đồng nghĩa với xã hội hoá, nhưng xét về mặt thuật ngữ thì sử dụng thuật ngữ dân chủ hợp lí hơn. Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng xã hội hóa (socialisation) là một khái niệm của nhân loại học và xã hội học, được định nghĩa là quá trình con người liên tục tiếp thu văn hóa vào nhân cách của mình để sống trong xã hội như là một thành viên của xã hội ấy. Xã hội hoá trước tiên được thực hiện trong gia đình, rồi được tiếp tục thực hiện trong nhà trường và các nhóm xã hội - nghề nghiệp. Giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường thường làm công việc xã hội hoá trước (anticipatory socialisation); trong nhiều trường hợp, nhất là khi đã vào đời hoặc sống trong những hoàn cảnh đặc biệt, người ta phải đào thải một số giá trị cũ, tiếp thu những giá trị mới để hoàn thiện bản thân, tức là được xã hội hoá lại (resocialisation). Để tránh hiểu ngược với cách hiểu đã phổ biến từ lâu trong nhân loại học và xã hội học, chúng ta cần thay thuật ngữ xã hội hoá trong cụm từ xã hội hoá giáo dục bằng thuật ngữ dân chủ (hoặc dân chủ hoá) và hiểu dân chủ có nghĩa là người dân tham gia phát triển giáo dục, quản lý giáo dục và được tạo mọi điều kiện để hưởng thụ thành quả giáo dục. Phải tạo ra bằng được một xã hội học tập, trong đó toàn dân đi học, toàn dân hỗ trợ việc học vì sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh và vì hạnh phúc của mỗi người.

Trên phương diện quản lý giáo dục, dân chủ thể hiện ở quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục, quyền chủ động của giáo viên và quyền của người học đóng góp vào quá trình thực hiện hoạt động giáo dục.

Còn trên phương diện nội dung và phương pháp dạy học, dân chủ thể hiện không chỉ ở tư tưởng dân chủ trong các bài học và tài liệu học tập, mà còn ở sự tôn trọng người học, tạo điều kiện để người học phát triển.

Việc động viên người dân tham gia phát triển giáo dục và xây dựng xã hội học tập đã có những kinh nghiệm rất quý của phong trào chống nạn mù chữ trong những ngày đầu thành lập nền dân chủ cộng hoà. Ngay tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị mở một chiến dịch chống nạn mù chữ. Ngày 8-9-1945, Chính phủ ban hành sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ, quyết định thành lập những lớp học bình dân buổi tối cho nông dân và thợ thuyền. Việc học chữ quốc ngữ là bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người. Hạn trong một năm, toàn thể dân chúng Việt Nam trên 8 tuổi phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Ông Vũ Đình Hòe - người từng giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục trong Chính phủ lâm thời đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tính toán: “Cứ dạy cho một người biết đọc, biết viết trong ba tháng phải tốn ít nhất là 6 đồng. Dạy cho 10 triệu người trong một năm phải tiêu hơn 60 triệu đồng tiền sách vở, giấy bút. Nếu trả lương giáo viên thì phải thêm 10 triệu đồng nữa vì phải cần đến 10 vạn giáo viên, mỗi giáo viên có thể dạy 100 học sinh trong một năm. Nếu chỉ dựa vào ngân sách nhà nước thì phải ít nhất 30, 40 năm nữa mới kết thúc được phong trào”. Nhưng nhờ dựa vào sức dân, chỉ sau một năm triển khai Bình dân học vụ (8-9-1945 – 8-9-1946), cả nước đã có gần 75.000 lớp học với hơn 95.000 giáo viên. Hơn 2,5 triệu người đã thoát nạn mù chữ. So với dân số nước ta lúc đó là 22 triệu người, mới thấy đây thật sự là một kỳ tích của nền giáo dục non trẻ(3). Đây là bài học về dân chủ cần được nhận thức sâu sắc trong công cuộc đổi mới giáo dục lần này.

Khai phóng

Khai phóng là cởi mở về tư tưởng, học thuật, tạo điều kiện cho việc tiếp nhận và sáng tạo cái mới. Có khai phóng mới tạo ra được những lớp người dám nghĩ, dám làm. Người Việt Nam chúng ta thường tiếp thu nhanh và có nhiều sáng kiến nhưng năng lực tưởng tượng không cao, do đó ít có khả năng tạo ra những bước đột phá. Từ mô hình xã hội đến phát triển kinh tế, công nghệ, chúng ta thường nhập khẩu hoặc mô phỏng sáng kiến nước ngoài. Chưa có sáng tạo nào từ lớn đến nhỏ như khoa học vũ trụ, công nghệ thông tin, công nghệ gene, điện, điện thoại hay áo chống cháy, sơn phản quang, bơm đập, v.v... thuộc về người Việt Nam. Nguyên nhân hẳn không phải là hạn chế về năng lực tư duy mà là ở sự kìm hãm tự do tư tưởng và sự thiếu thốn về cơ sở vật chất kéo dài hàng nghìn năm từ chế độ phong kiến phương Đông. Hơn lúc nào hết, đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục là thời cơ thuận lợi để giải phóng tư duy con người khỏi tầm nhìn hạn hẹp, tạo ra những bước ngoặt về chất lượng nhân lực, góp phần thúc đầy phanh sự phát triển của đất nước và tiến bộ của nhân loại.

Thứ hai, đổi mới cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân

Theo quy định tại Điều 4, Luật Giáo dục, hệ thống giáo dục quốc dân nước ta bao gồm các cấp học và trình độ đào tạo: giáo dục mầm non (gồm nhà trẻ và mẫu giáo), giáo dục phổ thông (gồm tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông), giáo dục nghề nghiệp (gồm trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề), giáo dục đại học (gồm các trình độ đào tạo cao đẳng, đại học, thạc sĩ và tiến sĩ). Trừ giáo dục mầm non, tất cả các cấp học và trình độ đào tạo đều được tổ chức theo hai hình thức giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên.

Hệ thống giáo dục phổ thông kéo dài 12 năm tỏ ra không phù hợp với hoàn cảnh của đa phần người học và điều kiện kinh tế của đất nước nói chung. Theo quan điểm của chúng tôi, nên thiết kế hệ thống này theo công thức 9 + 2, tức là đại bộ phận học sinh chỉ học 9 năm, sau đó vào trường nghề; số học sinh có đủ điều kiện sẽ học 2 năm dự bị đại học và chỉ học các môn phục vụ chuyên ngành tương lai (ví dụ, học Ngữ văn và Ngoại ngữ để vào đại học Ngoại ngữ; học Hoá, Sinh để vào đại học Y; học Toán, Lý, Hoá để vào đại học kỹ thuật…).

Về việc này, có thể học hỏi kinh nghiệm của Cộng hoà Liên bang Đức và một số nước châu Âu. Hết tiểu học, người ta đã định hướng cho học sinh phân ban tuỳ theo năng lực của học sinh và nguyện vọng của mỗi gia đình: Học sinh có thể theo học chương trình trung học 6 năm để khi tốt nghiệp có thể vào đại học, học chương trình trung học 5 năm để khi tốt nghiệp vào cao đẳng, cũng có thể học chương trình trung học 4 năm để khi tốt nghiệp thì vào trường nghề. Phụ huynh và học sinh được lựa chọn chương trình nên không có ai than phiền quá tải.

Hệ thống giáo dục chuyên nghiệp và giáo dục đại học nước ta khá rắc rối. Bên cạnh các trường trung cấp chuyên nghiệp, trường cao đẳng, trường học, còn có các trường nghề, bao gồm ba trình độ sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề. Sự thực là rất khó phân biệt trung cấp chuyên nghiệp với trung cấp nghề và cao đẳng với cao đẳng nghề. Và cũng khó giải thích vì sao cao đẳng thuộc lĩnh vực giáo dục đại học, còn cao đẳng nghề lại không thuộc lĩnh vực này. Theo chúng tôi, nhân dịp đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, chúng ta cần giải quyết những rắc rối này - những rắc rối nảy sinh không phải từ khoa học mà từ sự phân công quản lý chồng chéo của Chính phủ. Cũng nhân dịp này, nên xem xét khả năng khôi phục chương trình đại học hai giai đoạn với cách thực hiện linh hoạt hơn và chuyển những trường đại học chưa đủ năng lực hoạt động độc lập thành trường đại học cộng đồng trong hệ thống liên kết đào tạo với các trường lớn và được những trường này bảo trợ.

Về hình thức giáo dục thường xuyên, cũng cần có sự nhận thức lại. Để tiến tới một xã hội học tập, trong đó người lao động có thể học bất kỳ một học phần nào để nâng cao hiểu biết và kỹ năng, phục vụ cho công việc của mình, không nên quan niệm cứng nhắc giáo dục thường xuyên phải tổ chức thành những lớp học riêng, học phải lấy bằng, mà cần quan niệm là tuỳ điều kiện thời gian của mình và khả năng tiếp nhận của cơ sở giáo dục, người học có thể theo học cùng sinh viên chính quy hoặc học lớp riêng. Nhưng để nâng cao chất lượng, đảm bảo giáo dục thường xuyên có mặt bằng ngang với mặt bằng đào tạo chính quy, những người có nguyện vọng học lấy bằng hay tín chỉ cần thi học phần, thi tốt nghiệp chung với sinh viên chính quy.

Thứ ba, đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục

Theo các nhà nghiên cứu, trong giáo dục có hai cách xây dựng chương trình là xây dựng theo định hướng nội dung (content-based approach) và xây dựng theo định hướng năng lực (competency-based approach).

Xây dựng chương trình theo định hướng nội dung là định ra trong chương trình một hệ thống các đơn vị kiến thức cần trang bị cho người học. Đây là kiểu chương trình xác định đầu vào. Cách tiếp cận này nặng về lý thuyết, kết quả là người học có thể được trang bị kiến thức có tính hệ thống nhưng yếu về kỹ năng thực hành, đặc biệt là kỹ năng sống. Xây dựng chương trình theo định hướng năng lực là định ra trong chương trình những phẩm chất người học cần đạt được sau mỗi giai đoạn của chương trình để đáp ứng yêu cầu của cuộc sống. Đây là kiểu chương trình xác định đầu ra. Việc xác định đầu ra, tức là lập danh sách những năng lực cần bồi dưỡng cho người học không dễ dàng vì nó không phải là một hệ thống có sẵn như khái niệm khoa học trong trường hợp xây dựng chương trình theo định hướng nội dung. Nhưng hiệu quả của chương trình theo định hướng năng lực là rất lớn. Nó không chỉ đáp ứng đúng yêu cầu của xã hội đối với thế hệ trẻ và đảm bảo kết quả đào tạo bền vững mà còn tiết kiệm thời gian, tiết kiệm nguồn lực trong đào tạo, đồng thời giảm áp lực làm việc, áp lực học hành đối với người dạy và người học. Đây là hướng đổi mới nội dung dạy học trong thời gian tới.

Nội dung và phương pháp dạy học bao giờ cũng gắn bó với nhau. Mỗi nội dung đòi hỏi một phương pháp thích hợp. Các kĩ năng không thể được hình thành và phát triển bằng con đường truyền giảng thụ động. Muốn phát triển những kĩ năng này, người học phải được hoạt động trong môi trường gần với môi trường thực dưới sự hướng dẫn của người dạy. Các kiến thức có thể được tiếp thu qua lời giảng, nhưng người học chỉ làm chủ được những kiến thức này khi chiếm lĩnh chúng bằng chính hoạt động có ý thức của mình. Cũng như vậy, những tư tưởng, tình cảm và nhân cách tốt đẹp chỉ có thể được hình thành chắc chắn thông qua sự rèn luyện trong thực tế. Đó là những lí do cắt nghĩa sự ra đời của phương pháp dạy học mới – phương pháp tổ chức hoạt động.

Cùng với đổi mới nội dung chương trình và phương pháp dạy học, cũng cần sắp xếp hợp lí thời gian học trên lớp với thời gian dã ngoại, tăng tính linh hoạt của chương trình, trao quyền chủ động nhiều hơn cho nhà trường và giáo viên để đa dạng hóa các hình thức bồi dưỡng tri thức, rèn luyện kỹ năng và nhân cách cho học sinh.

Thứ tư, đổi mới công tác xây dựng đội ngũ nhà giáo

Yếu tố quan trọng nhất, quyết định thành công của đổi mới giáo dục là giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, gọi chung là nhà giáo.

Để nâng cao chất lượng và phát triển đội ngũ này, trước hết, phải quan tâm tới việc đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo. Chương trình và phương pháp tổ chức đào tạo ở trường sư phạm phải thay đổi. Phải gắn kết chặt chẽ trường sư phạm với trường phổ thông, ít nhất cũng như mức độ gắn kết giữa trường Y với bệnh viện, để sinh viên có điều kiện vừa học vừa làm. Công tác bồi dưỡng thường xuyên đối với nhà giáo cũng cần được cải tiến để có hiệu quả rõ rệt hơn.

Bên cạnh đó, cần giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa phẩm chất, năng lực và đời sống của nhà giáo. Trong những năm 1960 - 1970, chúng ta thường chỉ đề cập đến phẩm chất của cán bộ (còn gọi là hồng) và năng lực của cán bộ (còn gọi là chuyên) để phấn đấu ''vừa hồng, vừa chuyên''. Trong chiến tranh, đội ngũ nhà giáo gặp muôn vàn khó khăn nhưng vẫn đảm bảo được hồng và chuyên ở mức độ nhất định. Vì ở thời điểm đó con người phải cố gắng, đặc biệt là những người ở hậu phương phải luôn cố gắng để xứng đáng với những người ra tiền tuyến. Nhưng bây giờ cuộc sống đã trở lại trạng thái bình thường, không thể yêu cầu nhà giáo vừa hồng, vừa chuyên lại vừa thu nhập thấp được. Việc khôi phục phụ cấp thâm niên cho nhà giáo gần đây là một biện pháp tăng thu nhập, góp phần cải thiện đời sống cho nhà giáo. Nhưng về lâu dài, cần nghĩ đến cơ chế trả lương theo khối lượng và chất lượng công việc để những người có năng lực và toàn tâm toàn ý với nghề có thể sống được bằng nghề.

Năm 1999, chúng tôi có dịp đi khảo sát ở Vương quốc Anh và Bắc Ai-len. Một lớp tiểu học ở bên đó có 25 học sinh, 2 cô giáo cùng dạy một lúc - một cô giáo chính, một cô giáo phụ. Lương của cô giáo chính là 26.000 bảng/năm, tức là 1 tháng là 2.167 bảng x 33.082, tương đương 71.500.000 đồng/tháng. Còn cô giáo phụ, lương cứng bằng một nửa hoặc 2/3 lương cô giáo chính. Thu nhập cao như vậy, nhà giáo mới có thể toàn tâm, toàn ý lo cho công việc, cho học sinh và không có hiện tượng tiêu cực.

Thứ năm, đổi mới quản lý giáo dục

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã xác định đổi mới cơ chế quản lý giáo dục là một trong hai khâu then chốt trong đổi mới giáo dục. Văn kiện Đại hội XI của Đảng nêu rõ: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt”.

Theo ý kiến chúng tôi, trong đổi mới công tác quản lý, vấn đề trọng tâm là giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa tập trung với phân cấp quản lý. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần sớm được giải phóng khỏi những việc làm thay cơ sở như tổ chức kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông, kỳ thi tuyển sinh đại học, thành lập hội đồng chấm luận án và xét kết quả chấm luận án tiến sĩ, in và cấp phôi bằng,... để tập trung hoạch định chiến lược phát triển giáo dục, ban hành các văn bản quản lý, tổ chức thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm,… Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng cần được giao trách nhiệm quản lý việc sử dựng toàn bộ nguồn lực tài chính dành cho giáo dục. Các cơ sở giáo dục, kể cả trường phổ thông, cần được trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm phù hợp với năng lực của mình. Trong đợt khảo sát về giáo dục tiểu học ở Vương quốc Anh và Bắc Ai-len năm 1999, chúng tôi thấy các trường tiểu học đều có quyền tự chủ rất cao: giáo viên được quyền chọn tài liệu dạy học phù hợp với đặc điểm lớp mình và thường thì họ không dạy theo hẳn một bộ sách giáo khoa nào; còn hiệu trưởng được quyền tuyển dụng và sa thải giáo viên; cơ quan quản lý cấp quận và thành phố chỉ đóng vai trò tư vấn và hướng dẫn chuyên môn. Nhưng quyền lớn thì trách nhiệm cũng cao. Hiệu trưởng và giáo viên phải chịu trách nhiệm về kết quả học tập của trường hoặc lớp mà họ phụ trách. Kết quả các kỳ thi do Cơ quan về Chương trình và Khảo thí thực hiện được công bố trên báo chí và đó là căn cứ để hội đồng giáo dục địa phương quyết định “số phận” của những người phụ trách lớp, trường

Thứ sáu, đổi mới cơ chế tài chính giáo dục

Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 35/2009/QH12 về chủ trương, định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo từ năm học 2010 - 2011 đến năm học 2014 - 2015. Nghị quyết gồm 6 nội dung chính, trong đó có một số nội dung mới, cụ thể là:

- Xác lập quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính và về biên chế cho cơ sở giáo dục đại học và nghề nghiệp.

- Đổi mới chính sách học phí, học bổng và hỗ trợ người học theo hướng học phí giáo dục mầm non và phổ thông công lập phù hợp với điều kiện kinh tế của từng địa bàn dân cư, khả năng đóng góp thực tế của người dân, hướng tới miễn học phí vào thời điểm thích hợp, hỗ trợ kinh phí cho hộ nghèo có con đi học.

- Đối với giáo dục đại học và nghề nghiệp, học phí thực hiện theo nguyên tắc chia sẻ chi phí đào tạo giữa Nhà nước với người học, có lộ trình thực hiện gắn liền với yêu cầu ba công khai(4) và thực hiện kiểm định chất lượng đào tạo.

Tuy nhiên, cho đến nay, chưa một tỉnh, thành phố nào trong cả nước áp dụng mức học phí mới và chính sách hỗ trợ kinh phí cho hộ nghèo để có điều kiện đưa con tới trường. Theo chúng tôi, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần khảo sát thực tế để đánh giá đúng nguyên nhân của tình trạng này, từ đó trình cơ quan có thẩm quyền hoàn thiện các giải pháp nêu trong Đề án, tạo điều kiện phát triển sự nghiệp giáo dục.

Thứ bảy, phát triển kinh tế - xã hội, tạo môi trường thuận lợi để thực hiện đổi mới giáo dục

Giáo dục là một bộ phận hữu cơ của xã hội, vì vậy sự phát triển của nó gắn liền với những điều kiện kinh tế - xã hội. Để tạo điều kiện đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, môi trường kinh tế - xã hội cũng cần phải được đổi mới mạnh mẽ.

Nguyên nhân sâu xa nhất hạn chế chất lượng giáo dục của nước ta là nền kinh tế và thị trường lao động chưa tạo được sức hấp dẫn và áp lực buộc giáo dục phải thay đổi. Một nền kinh tế dựa trên lắp ráp, gia công, khai khoáng, nông nghiệp cổ truyền cùng dịch vụ nhà hàng, khách sạn, mua bán đất đai thì không cần các cử nhân và kỹ sư xuất sắc. Bên cạnh đó, nền kinh tế, nhất là khu vực kinh tế nhà nước, chưa vận hành theo đúng quy luật kinh tế thị trường, từ đó đẻ ra một thị trường lao động không công bằng và một nền giáo dục ứng thí, đi học chỉ cốt để thi lấy bằng nhằm đáp ứng tiêu chuẩn ''cán bộ'', chứ không cần thực học. Cho nên, muốn cải thiện chất lượng giáo dục thì Nhà nước phải đẩy mạnh cải cách kinh tế và đổi mới chính sách tuyển dụng, sử dụng cán bộ. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, xây dựng nếp sống văn hoá lành mạnh, nhân ái tạo môi trường xã hội tích cực để hình thành và phát triển nhân cách tốt đẹp cho tuổi trẻ học đường.

Trên đây là một số ý kiến bước đầu về một số giải pháp đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam. Đổi mới một lĩnh vực rộng lớn như giáo dục không phải dễ dàng, nhưng đó là công việc nhất thiết phải làm để thực hiện ước nguyện đưa dân tộc ta ''bước tới đài vinh quang, sánh vai cùng các cường quốc năm châu'' như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói trong bức thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam mới.

GS.TS. Nguyễn Minh Thuyết - PGS.TS. Hoàng Hòa Bình
--------------

(1) (2) - Viện Ngôn ngữ học: từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, 2005, 118, tr. 1003.

(3) - Xã hội hoá thời lập quốc. Báo điện tử Đất Việt, ngày 5-9-2011.

(4) - 1. Công khai cam kết và công khai thực tế về chất lượng giáo dục; 2. Công khai nguồn lực của cơ sở đào tạo; 3. Công khai tài chính.

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất