Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân luôn được Nhà nước ta tôn
trọng, bảo đảm, coi đó là một trong những quyền cơ bản của công dân.
Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo và các loại hình tín ngưỡng; tín đồ các tôn giáo đều là nhân dân lao động, có tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm. Ngay trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của lực lượng cách mạng Việt Nam. Đảng, Nhà nước ta có nhiều chủ trương, chính sách đoàn kết các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc để tiến hành thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân luôn được Nhà nước ta tôn trọng, bảo đảm, coi đó là một trong những quyền cơ bản của công dân. Thế nhưng, các thế lực thù địch vẫn tìm mọi cách tung ra những luận điệu cho rằng Việt Nam không có tự do tôn giáo, vu cáo Nhà nước ta vi phạm dân chủ, nhân quyền, nhằm gây chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ Đảng, Nhà nước với đồng bào các tôn giáo, kích động quần chúng tín đồ chống đối chính quyền, gây mất ổn định chính trị - xã hội, tạo cớ can thiệp vào nội bộ nước ta. Để thực hiện âm mưu này, chúng đã tiến hành bằng nhiều cách, với các phương thức, thủ đoạn rất thâm độc, xảo quyệt. Chúng ta có thể nhận diện và chỉ ra sự phi lý của những luận điệu vu cáo Việt Nam không có tự do tín ngưỡng, tôn giáo qua các hoạt động sau:
Thứ nhất: Xuyên tạc, vu cáo Nhà nước can thiệp vào công việc nội bộ của tôn giáo, đòi hoạt động tôn giáo không cần sự quản lý của Nhà nước.
Mỗi khi Nhà nước ta bổ sung hoặc ban hành những văn bản pháp luật mới để điều chỉnh về hoạt động tôn giáo cho phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, phù hợp với tâm tư, tình cảm, nhu cầu tín ngưỡng của tín đồ thì họ lại dấy lên chiến dịch đòi bãi bỏ các văn bản pháp luật này hoặc xuyên tạc, tìm cách ngăn cản chức sắc, tín đồ thực hiện. Luận điệu của họ là tôn giáo phải độc lập với Nhà nước, không chịu sự quản lý của Nhà nước. Họ tâng bốc, ca ngợi tự do tôn giáo ở các nước tư bản, tôn giáo được tự do hoạt động, chính quyền không can thiệp vào các hoạt động tôn giáo, vì đây là quyền tự do của công dân. Những luận điệu này đã làm cho không ít tín đồ các tôn giáo hoài nghi chính sách, pháp luật tôn giáo của Đảng, Nhà nước. Nhiều người ngộ nhận cho rằng tất cả các hoạt động tôn giáo đều không phải xin phép chính quyền; thậm chí có những hành vi chống lại việc thực hiện các chính sách, pháp luật về tôn giáo của Đảng, Nhà nước.
Hoạt động tôn giáo không cần sự quản lý nhà nước là một luận điểm hoàn toàn sai trái, không đúng cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Trước hết, tổ chức tôn giáo là một tổ chức mang tính xã hội, mà đã là một tổ chức thì ở bất cứ quốc gia nào khi thành lập, hoạt động đều phải chịu sự quản lý của Nhà nước. Khi chưa được cơ quan nhà nước công nhận cũng có nghĩa là tổ chức đó chưa có tư cách pháp nhân. Khi đã có tư cách pháp nhân, tổ chức đó hoạt động phải tuân thủ các quy định pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động của mình.
Hoạt động tôn giáo không chỉ thuần túy nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của tín đồ, chức sắc nhà tu hành, mà còn liên quan đến các lĩnh vực đời sống xã hội. Ví như việc xây dựng nơi thờ tự, không chỉ đơn thuần là việc củng cố, phát triển cơ sở vật chất của giáo hội, mà còn liên quan đến những quy định của Nhà nước về đất đai, quy hoạch, xây dựng; hoạt động in ấn kinh bổn, sản xuất đồ dùng việc đạo, liên quan đến những quy định về văn hoá, xuất bản; hoạt động quan hệ với các tổ chức, cá nhân tôn giáo nước ngoài liên quan đến chính sách, pháp luật trên lĩnh vực đối ngoại, xuất nhập cảnh của Nhà nước, hoạt động đào tạo chức sắc liên quan đến Luật Giáo dục... Mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội và mọi công dân liên quan đến các lĩnh vực đời sống xã hội đều phải tuân thủ pháp luật của Nhà nước. Tôn giáo và hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng ở bất kỳ quốc gia nào cũng không thể đứng ngoài pháp luật của quốc gia đó.
Luật pháp quốc tế và của nhiều quốc gia đều quy định quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo là một quyền cơ bản của công dân, nhưng vẫn phải chịu sự điều chỉnh của nhà nước.
Các công ước quốc tế về nhân quyền đều quy định: các quốc gia phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, song các quyền này vẫn phải giới hạn bởi pháp luật của nhà nước. Công ước quốc tế về Các quyền dân sự và chính trị được Liên hợp quốc phê chuẩn ngày 16/12/1966, trong đó Điều 18 ghi rõ: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo”. Tuy nhiên, quyền tự do này vẫn “bị giới hạn bởi những quy định của pháp luật và những giới hạn này là cần thiết cho việc bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của công chúng hoặc những quyền tự do cơ bản của người khác”...
Các quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo. Tại các nước phát triển, tôn giáo cũng phải tuân thủ pháp luật, chịu sự quản lý của nhà nước. Luật pháp của nhiều nước đã có những quy định về tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Ở nước ta, quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo đã được hình thành từ các triều đại phong kiến. Từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Đảng và Nhà nước ta đã xác định quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là một nhiệm vụ quan trọng trong quản lý nhà nước. Đến nay, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội liên quan đến tôn giáo và hoạt động tôn giáo. Pháp luật về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trở thành một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực tôn giáo ngày càng được củng cố, hoàn thiện, góp phần quan trọng bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc và đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo xâm phạm an ninh quốc gia. Chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước đã cơ bản đáp ứng được nguyện vọng của đông đảo nhân dân, củng cố niềm tin, tạo động lực, sự phấn khởi cho đồng bào các tôn giáo đồng hành cùng dân tộc, cùng toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai: Xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo; vu cáo Việt Nam bóp nghẹt quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Luận điệu này không có gì mới, nhưng nguy hiểm ở chỗ nó đánh đúng vào quy luật tâm lý: cứ nói mãi điều không có thật, người ta sẽ tin là có thật, nên đã làm cho nhiều tổ chức cá nhân (chủ yếu ở nước ngoài) bị bưng bít thông tin, ngộ nhận, nhìn nhận sai lệch dẫn đến thiếu thiện cảm, thậm chí có những lời nói, việc làm chống Việt. Vậy, sự thật về đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật tôn giáo của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như thế nào?
Đảng, Nhà nước ta ngay từ khi thành lập đã hiểu rõ nhu cầu tâm linh của người dân Việt Nam và coi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền nhân thân cơ bản của người dân. Chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta được xây dựng một mặt dựa trên quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo; mặt khác căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam với tư tưởng nhất quán, xuyên suốt là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc.
Ngày 16/10/1990, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) ra Nghị quyết số 24-NQ/TW Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới là dấu mốc quan trọng về sự đổi mới đường lối, chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo; trong đó xác định: “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”. Sau gần 10 năm thực hiện Nghị quyết số 24, Đảng ta đã tổng kết, đánh giá những thành tựu và nêu rõ những khuyết điểm, đồng thời Bộ Chính trị ra Chỉ thị 37-CT/TW ngày 02/7/1998 Về công tác tôn giáo trong tình hình mới.
Sau 13 năm thực hiện chính sách đổi mới đối với tôn giáo, nhìn lại từ tổng kết thực tiễn, đồng thời xem xét những vấn đề mới nảy sinh, đặt trong hoàn cảnh trong nước và thế giới có nhiều thay đổi quan trọng, ngày 12/3/2003 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW Về công tác tôn giáo, trong đó quan điểm, chính sách của Đảng ta đối với tín ngưỡng, tôn giáo tiếp tục được khẳng định và phát triển thêm một bước mới: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật…”.
Xuyên suốt quá trình lịch sử của đất nước quan điểm, chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng đã được Nhà nước cụ thể hóa trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật.
Cùng với việc khẳng định những chủ trương, chính sách của Đảng và nguyên tắc cơ bản đối với tín ngưỡng, tôn giáo trong Hiến pháp, Nhà nước ta đã thể chế hóa quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo qua những văn bản quy phạm pháp luật tuỳ theo tình hình thực tế từng thời kỳ và nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân. Ngày 14/6/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh số 234/SL Về vấn đề tôn giáo. Đây là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên cụ thể hoá quy định của Hiến pháp về vấn đề tôn giáo.
Sau khi đất nước thống nhất, ngày 11/11/1977, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 297/CP trên năm nguyên tắc: Đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của công dân; Đảm bảo bình đẳng trước pháp luật giữa người có tín ngưỡng và người không có tín ngưỡng; Bảo hộ quyền lợi và nghĩa vụ công dân, của người theo đạo và không theo đạo; Định chế các hoạt động tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật; Chế tài những hành động lợi dụng tôn giáo phương hại đến lợi ích của đất nước, của dân tộc. Ngày 21/3/1991, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 69/HĐBT nhằm đáp ứng thời kỳ đổi mới toàn diện của đất nước theo tinh thần Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng: đạo đức tôn giáo có nhiều điểm phù hợp, tương đồng với đạo đức xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh đất nước trên đà đổi mới toàn diện, mối quan hệ trong nước với thế giới ngày càng mở rộng, để đáp ứng kịp thời với yêu cầu hội nhập quốc tế, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 26/1999/NĐ-CP ngày 19/4/1999 về Các hoạt động tôn giáo, tạo điều kiện đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân và khuyến khích những hoạt động tiến bộ, từ thiện trong các tôn giáo. Ngoài ra, Nghị định 26 còn quy định cụ thể về tạo điều kiện thuận lợi hơn cho chức sắc, nhà tu hành hoạt động tôn giáo theo chức phận của mình. Các mối quan hệ giữa tổ chức tôn giáo trong nước với tổ chức tôn giáo nước ngoài và người nước ngoài vào hoạt động tôn giáo trong nước được thông thoáng hơn.
Tuy vậy, việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo chính sách của Nhà nước trong gần 30 năm sau ngày thống nhất đất nước, từ Nghị quyết số 297 (11/11/1977), Nghị quyết số 69 (21/3/1991) đến Nghị định số 26 (19/4/1999) vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu mới đặt ra. Do đó, ngày 18/6/2004, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khoá XI đã thông qua Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo và được Chủ tịch nước ký Lệnh công bố ngày 29/6/2004. Pháp lệnh không chỉ thực hiện sự nhất quán chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng đang diễn ra rất phong phú trên đất nước ta mà còn tương thích với Công ước quốc tế về Quyền con người mà Việt Nam đã tham gia ký kết hoặc gia nhập. Pháp lệnh cũng hàm chứa nội dung điều chỉnh rộng lớn và thông thoáng hơn nhiều so với các văn bản quy phạm pháp luật trước đó; những vấn đề nảy sinh trong lĩnh vực tôn giáo đều được điều chỉnh bảo đảm cho việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, như: Việc phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển và phạm vi hoạt động của các giáo sĩ được xem là công việc nội bộ của tổ chức tôn giáo; điều kiện thực thi về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được thống nhất, đồng bộ từ trên xuống, khắc phục tình trạng bất cập trước đây.
Để bảo đảm thực hiện Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 22/2005/NĐ-CP ngày 01/3/2005 hướng dẫn các cấp, các ngành thi hành đúng tinh thần của Pháp lệnh. Sau 8 năm thực hiện Pháp lệnh và nghị định nói trên cho thấy còn nhiều điểm chưa phù hợp với sự phát triển của xã hội, ngày 08/11/2012, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 92/2012/NĐ-CP Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo để thay thế Nghị định số 22/2005/NĐ-CP. Đây là những văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp những nội dung cơ bản trong các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta hiện nay.
Thứ ba: Xuyên tạc trắng trợn tình hình tôn giáo ở Việt Nam.
Cùng với luận điệu xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo, các thế lực thù địch và phản động trong và ngoài nước còn luôn tìm cách xuyên tạc tình hình tôn giáo ở Việt Nam. Thông qua Internet, qua con đường thăm thân, du lịch, trao đổi hợp tác quốc tế, hội thảo khoa học, các đối tượng xấu trong nước đã viết bài, gửi tài liệu xuyên tạc tình hình các tôn giáo ở Việt Nam cho các trung tâm phá hoại tư tưởng ở nước ngoài sử dụng tuyên truyền chống Việt Nam về dân chủ, nhân quyền. Nội dung chúng xuyên tạc thường tập trung vào một số chủ đề chính: vu cáo chính quyền đàn áp tôn giáo; không cho xây sửa nơi thờ tự, cản trở các hoạt động tôn giáo của chức sắc nhà tu hành,...
Thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, sau gần 30 năm đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, trong đó có lĩnh vực tôn giáo. Nếu lấy mốc năm 2006, thời điểm mà Bộ Ngoại giao Mỹ đưa Việt Nam ra khỏi danh sách “các nước cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo” - CPC để so sánh với thời điểm hiện nay sẽ thấy sự thay đổi nhanh chóng trong đời sống tôn giáo tại Việt Nam. Nếu không có chính sách tự do tôn giáo thì hiện nay không thể có 37 tổ chức tôn giáo được công nhận và đăng ký hoạt động. Từ chỗ chỉ có ba tổ chức tôn giáo được công nhận trước đây là: Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), Giáo hội Công giáo Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam, những năm qua Nhà nước Việt Nam đã lần lượt xem xét và công nhận về mặt tổ chức cho nhiều tôn giáo. Trong 2 năm 2011 và 2012, tại Việt Nam có 600 cơ sở thờ tự được nâng cấp, sửa chữa và hơn 500 công trình tôn giáo được xây mới. Các học viện, đại chủng viện, các trường cao cấp, trung cấp của các tổ chức tôn giáo được mở ra tại nhiều nơi với sự tạo điều kiện thuận lợi của chính quyền địa phương. Chỉ tính riêng trong 8 năm gần đây, các tôn giáo Việt Nam đã có 15.000 người được phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, trong đó Tòa thánh Vatican đã phong chức 17 giám mục, giám mục phụ tá các giáo phận. Đến nay, ở Việt Nam có 83.000 chức sắc, 250.000 chức việc.
Cũng chỉ trong 8 năm thực hiện Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo trong cả nước đã có gần 20.000 cơ sở thờ tự được sửa chữa, xây dựng mới. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã cấp hàng trăm ha đất để xây dựng cơ sở thờ tự, như: TP. Hồ Chí Minh đã giao 7.500m2 đất cho Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) xây dựng Viện Thánh kinh Thần học; Hà Nội giao 10 ha cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam xây dựng Học viện Phật giáo; tỉnh Đăk Lắk giao hơn 11.000m2 đất cho Tòa Giám mục Buôn Ma Thuột; thành phố Đà Nẵng giao hơn 9.000 m2 đất cho Tòa Giám mục Đà Nẵng; tỉnh Quảng Trị giao thêm 15 ha đất cho Giáo xứ La Vang,... Công tác báo chí, xuất bản liên quan đến tôn giáo cũng được Nhà nước Việt Nam quan tâm, đáp ứng nhu cầu hoạt động của các tôn giáo. Hầu hết các tổ chức tôn giáo đã có báo, tạp chí, bản tin. Theo thống kê, từ năm 2006 đến nay, Nhà Xuất bản Tôn giáo đã cấp phép xuất bản 5.841 xuất bản phẩm, trong đó có 4.725 đầu sách với 14.535.464 bản in; 1.118 đĩa MP3, VCD, CD, DVD, ảnh, lịch, cờ với số lượng 2.546.201 bản, với nhiều ngôn ngữ khác nhau như: tiếng Anh, Pháp và tiếng dân tộc Khmer, Ê Đê, Gia Rai, Ba Na...
Trong những năm qua, nhiều hoạt động của các tổ chức tôn giáo với sự tham dự của đông đảo chức sắc, tín đồ và khách nước ngoài đã được tổ chức. Nhằm góp phần vào các hoạt động quốc tế trong lĩnh vực tôn giáo, nhiều cơ quan liên quan và nhiều tổ chức tôn giáo ở Việt Nam đã đón nhiều đoàn khách nước ngoài; đồng thời cử các đoàn đi nước ngoài trao đổi kinh nghiệm về lĩnh vực tôn giáo và tích cực tham gia các diễn đàn, hội nghị ở khu vực và thế giới. Đặc biệt, quan hệ Việt Nam - Vatican đã có nhiều bước cải thiện đáng kể.
Những thành tựu về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam là bằng chứng hùng hồn về tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, là nguyên tắc hàng đầu và nhất quán của Đảng, Nhà nước ta vì cuộc sống tinh thần của người dân. Chính vì vậy, các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ yên tâm sinh hoạt tôn giáo và cùng nhau đoàn kết, đồng lòng hướng tới mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Những thành tựu trong chăm lo quyền con người, trong đó có quyền tự do tôn giáo của Việt Nam được người dân theo tôn giáo và không theo tôn giáo ở Việt Nam cũng như dư luận quốc tế thừa nhận đã bác bỏ mọi sự xuyên tạc, bóp méo của những tổ chức cá nhân thiếu thiện chí và chứng tỏ rằng những luận điệu đó chỉ là những tiếng nói lạc lõng với mưu đồ đen tối của các thế lực thù địch nhằm phá hoại hoà bình, chủ quyền lãnh thổ, độc lập tự do và chế độ chính trị của Việt Nam.
Thứ tư: Đối với một số giáo dân, chức sắc tôn giáo có hoạt động lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động chống Việt Nam, bị chính quyền bắt, xử lý trước pháp luật.
Các thế lực thiếu thiện chí với Việt Nam thường tìm cách xuyên tạc, vu cáo chính quyền Việt Nam bắt người vì lý do tôn giáo và tìm cách can thiệp đòi thả tự do cho số này mà họ cho là “Tù nhân lương tâm”. Thậm chí họ còn đề nghị tặng giải thưởng Noben vì hòa bình hoặc các giải thưởng khác cho số này nhằm kích động họ tiếp tục chống đối. Việc làm này là hành vi vi phạm luật pháp quốc tế và can thiệp trắng trợn vào công việc nội bộ Việt Nam .
Đường lối, chính sách tôn giáo đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta đã khơi dậy được lòng yêu nước, thương nòi, tinh thần đoàn kết dân tộc trong đồng bào tín đồ các tôn giáo. Sự đóng góp tích cực của tín đồ các tôn giáo trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã chứng minh cho tinh thần yêu nước, đồng hành cùng dân tộc của đồng bào có đạo. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới, đại bộ phận đồng bào có đạo và đa số chức sắc trong các tôn giáo không chỉ đồng hành, ủng hộ công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng lãnh đạo mà còn tích cực tham gia thực hiện các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, góp phần thiết thực xây dựng quê hương đất nước theo tinh thần “tốt đời đẹp đạo”.
Thực tiễn những năm qua khẳng định, xu hướng đồng hành với dân tộc, với chế độ ta trong tiến trình đổi mới đất nước đang là xu thế chủ đạo chi phối hoạt động của quần chúng tín đồ và đội ngũ chức sắc các tôn giáo. Đây là một thành tựu có ý nghĩa to lớn của công tác tôn giáo và đấu tranh chống hoạt động lợi dụng tôn giáo cần được phát huy. Nhìn ra các nước khu vực, thế giới trong những năm gần đây, tình trạng xung đột sắc tộc đan xen với xung đột tôn giáo xảy ra ở nhiều nơi đã cho thấy thành tựu này của chúng ta là rất đáng trân trọng về nhiều mặt.
Bên cạnh đó, vẫn còn một số chức sắc tín đồ do bất mãn cá nhân, hoặc tư tưởng chống đối chế độ đã có những hoạt động vi phạm pháp luật như chỉ đạo, kích động tín đồ gây rối an ninh, trật tự, chống người thi hành công vụ, ngăn cản việc thực hiện chính sách pháp luật của Nhà nước, gây tình hình phức tạp an ninh, trật tự ở một số địa phương. Các đối tượng này đã được các cơ quan chức năng gặp gỡ đối thoại, khuyên giải từ bỏ các hoạt động vi phạm pháp luật, nhưng với bản chất ngoan cố, họ vẫn tiếp tục có hoạt động chống đối, buộc cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành khởi tố, điều tra xử lý theo đúng pháp luật.
Sự thực ở Việt Nam không có ai bị bắt vì lý do hoạt động tôn giáo; các chức sắc, tín đồ tôn giáo cũng là công dân Việt Nam, họ phải có nghĩa vụ chấp hành luật pháp Việt Nam. Bất cứ công dân Việt Nam nào kể cả cán bộ, đảng viên khi vi phạm pháp luật đều phải xử lý nghiêm minh. Chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì đều phải bị xử lý nghiêm minh như mọi công dân. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mọi công dân không phân biệt tôn giáo, dân tộc, địa vị xã hội đều bình đẳng trước pháp luật.
Thứ năm: Chính quyền Mỹ và một số nước thường tự cho mình quyền phán quyết về tình hình tôn giáo ở một số nước trong đó có Việt Nam.
Họ thường tự đề ra các đạo luật về tôn giáo ở Việt Nam để tạo “cơ sở pháp lý” can thiệp vào nội bộ nước ta. Hàng năm, Mỹ có 4 báo cáo về vấn đề nhân quyền, tự do tôn giáo của các nước đều phản ánh sai sự thật. Trong mấy thập kỷ qua, Mỹ tự cho mình quyền đưa ra các đạo luật, như: Quốc hội Mỹ thông qua “Đạo luật tự do tôn giáo quốc tế Mỹ” (mang ký hiệu H.R 2431) vào tháng 10/1998; những năm sau đó là: “Đạo luật nhân quyền cho Việt Nam” (H.R 1587), “Đạo luật thúc đẩy tự do tôn giáo và dân chủ ở Việt Nam” (H.R 2833), “Dự luật nhân quyền Việt Nam 2006” (H.R. 3190), “Đạo luật thúc đẩy dân chủ” (H.R 1133), “Dự luật đòi chính phủ Việt Nam trả nhà đất của các cá nhân và tổ chức tôn giáo bị tịch thu sau năm 1975” (H.R 415),... Bộ Ngoại giao Mỹ công bố báo cáo thường niên về tự do tôn giáo quốc tế lần thứ 6 trong đó đưa Việt Nam vào danh sách “các nước cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo” với lời cảnh báo nếu Việt Nam không thực hiện quyền tự do tôn giáo, sẽ áp dụng các biện pháp chế tài (9/2004). Sau gần hai năm đấu tranh và với sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ ở Mỹ cũng như dư luận quốc tế, ngày 14/11/2006 Bộ Ngoại giao Mỹ buộc phải đưa Việt Nam ra khỏi danh sách “các nước cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo”.
Để phụ họa theo kiểu “kẻ đánh trống, người khua chiêng”, Nghị viện châu Âu ra Nghị quyết “Tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam” (11/2003) và nhiều lần ra báo cáo thiếu khách quan về tình hình nhân quyền Việt Nam. Năm 2002, EU ban hành riêng một nghị quyết về tình hình Tây Nguyên của Việt Nam. Cũng vào năm đó, Quốc hội Đức lần đầu tiên có nghị quyết yêu cầu Ủy ban châu Âu và chính phủ các nước EU thực hiện điều khoản quy định về nhân quyền trong hiệp định khung năm 1995 về hợp tác giữa EU với Việt Nam; trong đối thoại với Việt Nam nhóm Troika EU ở Hà Nội thường xuyên yêu cầu Việt Nam cung cấp cho họ những thông tin liên quan đến tình hình nhân quyền, tôn giáo ở Việt Nam. Ngày 12/9/2005, Nghị viện châu Âu đã tổ chức điều trần về tình hình nhân quyền ở 3 nước: Việt Nam, Lào, Campuchia; tạo diễn đàn cho Võ Văn Ái, Phạm Văn Tưởng (tức Thích Trí Lực) đến vu cáo Việt Nam đàn áp tôn giáo và đưa ra yêu sách 7 điểm trong đó có nội dung đòi tự do tôn giáo...
Những hành động trên của chính quyền Mỹ và một số nước đã thể hiện rõ sự can thiệp thô bạo, trắng trợn của họ vào công việc nội bộ của các quốc gia có chủ quyền, muốn áp đặt luật pháp của nước mình cho nước khác. Đây là điều không thể chấp nhận được trong quan hệ quốc tế hiện nay. Pháp luật tín ngưỡng, tôn giáo của mỗi quốc gia đều được xây dựng phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và truyền thống văn hóa của dân tộc. Vì vậy, không thể lấy pháp luật của nước này áp đặt cho nước khác.
Việc tự cho mình quyền đưa ra các đạo luật để phán xét tình hình tôn giáo ở Việt Nam không chỉ vi phạm pháp luật quốc tế, can thiệp vào công việc nội bộ nước ta mà còn là hành động “bật đèn xanh” cho các tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí lợi dụng để chống phá Việt Nam về dân chủ, nhân quyền.
Trong chiến lược “diễn biến hòa bình” chống Việt Nam, các thế lực thù địch đã xác định tôn giáo là một lĩnh vực trọng điểm nhạy cảm và tìm mọi cách xuyên tạc; lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá ta về dân chủ, nhân quyền, gây mất ổn định chính trị - xã hội, kích động chống đối nhằm thực hiện âm mưu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Song, trước chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, chắc chắn âm mưu thâm độc đó của các thế lực thù địch sẽ bị thất bại./.
Thiếu tướng, PGS.TS Trần Minh Thư
(Nguồn: TTXVN)