Câu hỏi là khi làm chính sách giáo dục Bộ GD-ĐT đã có những nghiên cứu
khoa học độc lập nhằm chứng minh tính hữu dụng của những đề xuất của
mình hay chưa?
Từ yêu cầu công bố quốc tế
Khi bàn về quy định đào tạo tiến sỹ, Bộ GD-ĐT đưa ra phương án “muốn bảo vệ tiến sỹ, phải có công bố quốc tế”.
Lập
luận của yêu cầu này là để nâng cao chất lượng tiến sỹ, hội nhập với
thế giới, trước khi bảo vệ luận án tiến sỹ, nghiên cứu sinh phải có công
trình khoa học, được phản biện và công bố quốc tế.
Chưa
bàn đến việc công bố trước hay sau bảo vệ tiến sỹ là hợp lý, trong toàn
bộ nội dung hội nghị bàn về vấn đề này những người tham gia không đưa
ra hay trích dẫn được bất kỳ nghiên cứu thực tế nào về đào tạo tiến sỹ
và chất lượng, trong bối cảnh Việt nam đã có 24.000 tiến sỹ được công
nhận trong hơn 20 năm qua.
Giả
sử chúng ta chưa có nghiên cứu ở Việt nam, việc “vay mượn” nghiên cứu
đã có ở một số nước khác làm so sánh đối chứng có lẽ cũng có thể dùng
được trong trường hợp này, nhưng tiếc là cũng không thấy có ai đề cập
đến một nghiên cứu khoa học cụ thể nào về vấn đề đào tạo tiến sỹ ở nước
ngoài cả.
Nói
cách khác, chúng ta đọc quy chế đào tạo tiến sỹ, học vị cao nhất trong
học thuật nghiên cứu được cả thế giới công nhận, nhưng lại không thấy
đâu những nghiên cứu khoa học để chứng minh việc công bố quốc tế trước
khi bảo vệ là cần thiết, nhằm thuyết phục cả xã hội, rằng tất cả người
học tiến sỹ là điều này là đúng và phù hợp với thực tiễn thế giới.
|
Đề xuất nghiên cứu sinh phải có công bố quốc tế cần phải có những nghiên cứu khoa học chứng minh tính thực tiễn của nó. |
Đến
đầu năm 2017, chủ đề về công bố quốc tế được chuyển sang chủ đề mới để
bàn là ‘dự thảo quy định tiêu chuẩn giáo sư, phó gió sư tại Việt Nam.
Trả
lời trên VietNamNet, ông Nguyễn Hữu Đức (ĐH Quốc gia Hà nội), đây là dự
thảo quy định ở mức “tối thiểu” nhằm “buộc” Việt Nam phải phát triển
năng lực nghiên cứu và công bố quốc tế, và theo ông Đức, “nhóm soạn thảo
chắc cũng đã có thống kê dựa trên số liệu công nhận GS, PGS những năm
gần đây và tiêu chí đó cũng mới nằm ở đỉnh phổ thống kê mà thôi”.
Trong
toàn văn chia sẻ của GS. Đức về quy định công bố quốc tế và công nhận
GS sửa đổi lần này, cá nhân tôi, hoàn toàn hiểu những nỗi khó khăn khi
đưa ra đưa vào những quy định về nghiên cứu, công bố quốc tế cũng như
mong muốn được nâng cao chất lượng nghiên cứu và công bố của Việt Nam
trong giai đoạn “toàn cầu hóa” hiện nay.
Về
việc công bố quốc tế, dù là ở cấp độ bảo vệ luận án tiến sỹ hay ở công
nhận giáo sư, tôi mong có những khảo sát thực tiễn của Việt Nam, những
nghiên cứu nghiêm túc của thế giới về nghiên cứu khoa học và công bố để
minh chứng.
Nếu
không có những nghiên cứu thuyết phục, các đề xuất công bố quốc tế đều
sẽ không có cơ sở khoa học để thực hiện. Bởi chúng ta không biết thế nào
là “công bố quốc tế”, chuẩn quốc tế có ứng dụng cao cho Việt Nam hay
không? Năng lực nghiên cứu nội địa đã đủ đáp ứng hay chưa?...
Trong khi chúng ta đã phải đối mặt với thực tế sau của Việt Nam:
-
Theo Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước, chúng ta có chưa tới 40% tân
giáo sư và phó giáo sư năm 2016 có công bố quốc tế. Dẫu vậy, những con
số này chưa chỉ ra cụ thể là có bao nhiêu công bố quốc tế được thực hiện
dưới hình thức “co-authors” (đồng tác giả) với các đối tác nghiên cứu
nước ngoài.
-
Thống kê từ các đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ trọng điểm có ngân
sách của nhà nước cho thấy, để có một bài báo quốc tế từ các đề tài này
cần đầu tư 10 tỷ đồng (gần $48.000). Đây là con số khá đắt đỏ ngay cả
chi phí đầu tư nghiên cứu khoa học cơ bản của Mỹ.
-
Hạn chế ngoại ngữ, thiếu năng lực và kỹ năng làm nghiên cứu của nghiên
cứu sinh cùng với năng lực hướng dẫn nghiên cứu của người hướng dẫn là
ba nguyên nhân cơ bản (đã được chỉ ra) làm cho việc đào tạo tiến sỹ của
Việt nam rất “thấp”, và không đi cùng với bất kỳ chuẩn nào của khu vực
hay thế giới.
Tại sao phải cải cách?
Tôi
cũng muốn chia sẻ một số thực tiễn của Mỹ trong khi học và làm nghiên
cứu sinh chuyên ngành quốc tế giáo dục, để chúng ta có thêm thông tin
tham khảo:
-
Ở Mỹ, giáo sư phải thực hiện tối thiểu 3 nhóm công việc: Giảng dạy –
hướng dẫn nghiên cứu và các hoạt động công tác phát triển cộng đồng học
thuật.
Tùy
theo từng định hướng của trường, sẽ có giáo sư dạy nhiều hơn, nhưng sẽ
có trường yêu cầu làm nghiên cứu và công bố nhiều hơn (Northwestern
University và hầu hết các trường nghiên cứu Top 60 của Mỹ).
Nghiên
cứu của Brookings và Northwestern đã chỉ ra, có thể giáo sư dạy rất
tốt, nhưng nghiên cứu lại dở hoặc ngược lại, và điều này không chỉ phụ
thuộc vào giáo sư, mà còn phụ thuộc vào ngân sách nghiên cứu, môi trường
nghiên cứu và năng lực nghiên cứu.
-
Khi chúng ta không có quy định cụ thể về công bố quốc tế là thế nào, sẽ
rất dễ gây ra nhiều “lộn xộn” sau này. Lấy ví dụ như ở Mỹ, giáo sư
trong lĩnh vực giáo dục không cần có công bố quốc tế, mà tự bản thân
giáo sư, muốn có uy tín trong chuyên ngành hoặc liên ngành tại Mỹ, họ
phải có nghiên cứu, phải lấy được funding (tài trợ nghiên cứu), giảng
dạy và có dự án hợp tác quốc tế thì mới có uy tín trong lĩnh vực mình
nghiên cứu hoặc giảng dạy.
Hơn
thế nữa, cũng cần nói thêm là trong mảng nghiên cứu khoa học xã hội, Mỹ
công nhận rất nhiều phương pháp nghiên cứu xã hội mà hiện ở Việt nam
chưa phổ biến. Vậy, sẽ có chuyện xảy ra là nghiên cứu theo phương pháp
nước ngoài công nhận mà về Việt Nam lại không được công nhận do chưa có
dạy phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội này ở Việt Nam.
Đây
là thực tế tôi đã gặp vào tháng 12/2016, khi trao đổi với một cán bộ
của một đại học Việt Nam, về nghiên cứu đánh giá đại học STEM của Việt
Nam do VEF thực hiện cùng các giáo sư Mỹ, qua phương pháp phỏng vấn và
khảo sát trực tiếp giảng viên và học sinh, tiếc là, theo quan điểm của
cán bộ này, phương pháp nghiên cứu như vậy không được đánh giá cao.
Từ
những thực tế trên, tôi thiết nghĩ quy định nào cũng sẽ chỉ là quy định
“chết”, dù ở Anh, Mỹ hay Việt Nam, nếu chúng ta không có được những
người đam mê nghiên cứu thực sự, không tạo dựng được môi trường khuyến
khích nghiên cứu vì lợi ích của đất nước.
Quay
trở lại với công bố quốc tế ở Việt Nam cho đào tạo tiến sỹ hay công
nhận giáo sư, theo tôi, trước khi quyết định theo đường hướng nào, hãy
làm nghiên cứu! Hãy chứng minh được qua nghiên cứu thực tiễn của Việt
Nam và dẫn chứng từ thế giới về năng lực của các giáo sư hiện tại đủ tốt
để hướng dẫn nghiên cứu sinh làm nghiên cứu và công bố quốc tế.
Nhìn
lại cả năm 2016 vừa qua, cứ vài tháng tôi lại thấy những đề xuất hay dự
án cải cách giáo dục làm dậy sóng dư luận và gây rất nhiều tranh luận
cho học sinh, phụ huynh, giáo viên và nhà trường, trong khi những dẫn
chứng cơ sở khoa học nghiên cứu cho các đề xuất này lại hoàn toàn thiếu
vắng hoặc không được công bố rộng rãi trên phương tiện truyền thông và
website của Bộ GD-ĐT.
Ở
Mỹ, trong quá trình phát triển và thực hiện chính sách về giáo dục, hầu
hết các đề xuất đề án và chính sách phải dựa trên nền tảng của nghiên
cứu khoa học độc lập mà thường được gọi là “cơ sở khoa học nghiên cứu”
(research – based evidence hay evidence-base), do nhiều trường đại học
hay viện nghiên cứu độc lập thực hiện và tham gia phản biện.
Mặc
dù Mỹ có hơn 5.000 trường đại học được kiểm định, chỉ có khoảng 200
trường có hoạt động nghiên cứu nghiêm túc và những giáo sư hàng đầu
trong từng ngành/lĩnh vực cụ thể. Tên tuổi của các trường như Harvard,
Stanford, Yale, University of Colorado, hay Michigan State University
khá nổi tiếng không chỉ vì lịch sử của họ, mà vì những dự án nghiên cứu
về chính sách hay phản biện chính sách giáo dục do Chính phủ hoặc Quốc
hội đặt hàng.
Vậy,
câu hỏi là liệu khi làm chính sách giáo dục, dù là dưới hình thức văn
bản quy phạm hay đề án cải cách hàng năm, Bộ GD-ĐT đã có những nghiên
cứu khoa học độc lập nhằm chứng minh tính hữu dụng của những đề xuất cải
cách của mình hay chưa?./.
Theo VOVnews