Thực hiện Chỉ thị số 24-CT/TW của Ban Bí thư khóa IX về tổng kết một số vấn đề về lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thực hiện nhiều đề tài khoa học trên lĩnh vực công tác kiểm tra, trong đó có Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX 03.07 "Đổi mới công tác kiểm tra, kỷ luật trong Đảng nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới"; chỉ đạo tổng kết thực tiễn những chuyên đề lớn, như: tổng kết công tác kiểm tra của Đảng qua 20 năm đổi mới; nhận diện sự suy thoái trong Đảng qua 20 năm đổi mới và hướng khắc phục; tình hình thực hiện dân chủ trong công tác kiểm tra và thi hành kỷ luật trong Đảng; tổng kết Chỉ thị số 29-CT/TW, ngày 14-2-1998 của Bộ Chính trị khóa VIII về tăng cường công tác kiểm tra của Đảng; tổng kết công tác kiểm tra của Ủy ban kiểm tra các cấp nhiệm kỳ 2001 - 2006... Kết quả tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận của Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã góp phần khẳng định những thành tựu, tiến bộ, chỉ ra những hạn chế, thiếu sót, phân tích rõ nguyên nhân, rút ra những bài học kinh nghiệm, đồng thời đề xuất, kiến nghị với Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư nhiều vấn đề về công tác xây dựng Đảng nói chung, công tác kiểm tra của Đảng nói riêng. Những kết quả nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn trên của Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa IX là cơ sở, tiền đề để Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa X tham mưu, đề xuất đưa vào chương trình làm việc của Ban Chấp hành Trung ương khóa X ngay từ đầu nhiệm kỳ và chương trình làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư hằng năm. Nhìn lại gần một nhiệm kỳ hoạt động của Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa X, nhiều đề xuất, kiến nghị, trong đó có những nội dung được tổng hợp là ý kiến tâm huyết và nguyện vọng của nhiều thế hệ cán bộ kiểm tra đã trở thành hiện thực, để lại những dấu ấn sâu sắc, nét nổi bật đáng ghi nhớ trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
Kiểm tra, giám sát là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng, một bộ phận quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Qua mỗi thời kỳ cách mạng, nội dung lãnh đạo và phương thức lãnh đạo của Đảng đều có sự đổi mới nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả lãnh đạo, thể hiện trong việc không ngừng hoàn thiện quan điểm, nguyên tắc, phương pháp công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật trong Đảng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, việc tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với các tổ chức đảng và đảng viên trong hệ thống chính trị về chấp hành và thể chế hóa chủ trương, nghị quyết, chỉ thị và các quy định của Đảng bằng hệ thống quy chế, quy định, quy trình thực hiện cụ thể để thực hiện Điều lệ Đảng là đòi hỏi tất yếu và mang tính khách quan. Tuy nhiên, cho đến trước Đại hội X của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương qua các nhiệm kỳ chưa có nghị quyết chuyên đề về công tác kiểm tra, giám sát; hoạt động kiểm tra, giám sát của cấp ủy, các tổ chức đảng và Ủy ban kiểm tra các cấp còn vướng mắc, lúng túng, bất cập do thiếu các văn bản quy định cụ thể, chi tiết trong thực hiện các nhiệm vụ và trong xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ kiểm tra.
Trên cơ sở Chương trình làm việc toàn khóa của Ban Chấp hành Trung ương khóa X, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ năm khóa X, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã tham mưu, giúp Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 14-NQ/TW về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, đây được coi là khâu "đột phá nhất điểm, khai thông toàn bộ" về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong nhiệm kỳ 2006 - 2010. Nghị quyết ra đời đã đáp ứng đòi hỏi, mong đợi của các cấp ủy, ủy ban kiểm tra và đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp. Quá trình triển khai quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết đã tạo sự chuyển biến toàn diện trong tư tưởng, nhận thức và hành động của các cấp ủy, tổ chức đảng, của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật trong Đảng. Cấp ủy các cấp từ Trung ương đến cơ sở đã đề cao trách nhiệm trong lãnh đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra theo Điều 30 Điều lệ Đảng, ban hành các quyết định, quy định, quy chế, quy trình về công tác kiểm tra, giám sát; có chương trình kiểm tra, giám sát hằng năm của cấp mình và kế hoạch thực hiện chương trình kiểm tra của cấp ủy cấp trên (1); định kỳ nghe báo cáo và có ý kiến chỉ đạo kịp thời những đề xuất, kiến nghị của Ủy ban kiểm tra; đẩy mạnh tuyên truyền về công tác kiểm tra, giám sát; quan tâm đến việc kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan Ủy ban kiểm tra, có chế độ, chính sách đối với cán bộ làm công tác kiểm tra, tạo ra luồng gió mới, động lực mới trong ngành kiểm tra của Đảng.
Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa X ban hành Nghị quyết số 31-NQ/TW, ngày 2-2-2009, về một số nhiệm vụ, giải pháp lớn nhằm tiếp tục thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Được Bộ Chính trị giao, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã tổ chức 12 cuộc hội thảo lấy ý kiến của các đồng chí nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, thành viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương qua các nhiệm kỳ; đại diện cấp ủy, ủy ban kiểm tra các tỉnh, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương; các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn ở Trung ương, với 182 ý kiến tham gia tại hội thảo về Đề án Chiến lược. Ngày 17-5-2010, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 72-KL/TW về Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2020, xác định mục tiêu, quan điểm và đề ra các nhiệm vụ, giải pháp mang tính toàn diện vừa trước mắt, vừa lâu dài về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Tư tưởng xuyên suốt của Chiến lược là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát để góp phần bảo vệ và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, thực hiện mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Thực hiện việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát bằng việc bổ sung, phát triển quan điểm, nguyên tắc, hoàn thiện quy chế, quy trình, quy định trong lãnh đạo, chỉ đạo; đổi mới việc kiện toàn tổ chức, tăng thẩm quyền để nâng cao vị trí, vai trò của ủy ban kiểm tra các cấp trong công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật trong Đảng.
Để bảo đảm công tác kiểm tra, giám sát được tiến hành một cách công khai, dân chủ, khách quan, thận trọng và chặt chẽ theo đúng nguyên tắc, phương pháp công tác đảng thì việc ban hành các quyết định, quy định, quy trình, quy chế làm cơ sở cho việc tổ chức các hoạt động kiểm tra, giám sát và xây dựng tổ chức bộ máy ủy ban kiểm tra các cấp là rất cấp thiết, bảo đảm việc lãnh đạo, chỉ đạo được tập trung, thống nhất. Nhận thức sâu sắc vấn đề này, Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa X đã tham mưu, giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành 12 quyết định, quy định và 16 quy chế phối hợp giữa Ủy ban Kiểm tra Trung ương với các tổ chức đảng và các cơ quan có liên quan về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật trong Đảng. Theo đó, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã ban hành 9 hướng dẫn về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật trong Đảng. Việc ban hành các văn bản của Trung ương và hướng dẫn của Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã hình thành một hệ thống tương đối đồng bộ các quy định của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, bước đầu khắc phục được những khó khăn, lúng túng, vướng mắc trong thực hiện nhiệm vụ của cấp ủy, các tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra các cấp, tạo thuận lợi và có tác dụng rõ rệt trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong thời gian qua.
Qua mỗi nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc, nhiệm vụ kiểm tra của cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp luôn được bổ sung, hoàn thiện; quyền hạn của ủy ban kiểm tra được tăng thêm. Từ Đại hội VIII, Điều lệ Đảng quy định: "Ủy ban kiểm tra từ cấp huyện, quận và tương đương trở lên quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên, nhưng không phải là cấp ủy viên cùng cấp; quyết định khiển trách, cảnh cáo đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp ủy cùng cấp quản lý và cấp ủy viên cấp dưới trực tiếp". Nhưng Hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong Chương VII, Chương VIII, Điều lệ Đảng chưa quy định thẩm quyền kỷ luật của Ủy ban Kiểm tra Trung ương đối với cán bộ diện Trung ương quản lý. Để phát huy quyền hạn theo quy định của Điều lệ Đảng, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã tham mưu, giúp Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 81-QĐ/TW, ngày 5-9-2007, về bổ sung thẩm quyền thi hành kỷ luật của Ủy ban Kiểm tra Trung ương đối với đảng viên, theo đó, Ủy ban Kiểm tra Trung ương có thẩm quyền thi hành kỷ luật bằng hình thức khiển trách, cảnh cáo đối với cán bộ diện Trung ương quản lý, nhưng không phải là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Trong nhiệm kỳ khóa X, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã ban hành Hướng dẫn thẩm quyền thi hành kỷ luật đối với đảng viên hàm cấp tướng trong lực lượng vũ trang, phân cấp cho Đảng ủy Quân sự Trung ương, Đảng ủy Công an Trung ương, các tỉnh ủy, thành ủy được thi hành kỷ luật bằng hình thức khiển trách, cảnh cáo, cách chức đảng viên hàm cấp tướng thuộc Đảng ủy Quân sự Trung ương, Đảng ủy Công an Trung ương, các tỉnh ủy, thành ủy, nhưng không phải là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, không giữ chức vụ do Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Sự phân cấp về thẩm quyền kỷ luật cho ủy ban kiểm tra đã giúp cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy các cấp có điều kiện, thời gian tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các công việc lớn, quan trọng của Đảng.
Ngày 16-10-1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng khóa II ra Quyết nghị số 29-QN/TW thành lập Ban Kiểm tra Trung ương gồm 3 thành viên chuyên trách và một số cán bộ giúp việc, nhằm đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đến nay, ngành kiểm tra đã có hơn 6 nghìn cán bộ chuyên trách và gần 7 vạn cán bộ kiểm tra kiêm chức. Tuy nhiên, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của cơ quan Ủy ban kiểm tra từ Trung ương đến cấp huyện chưa được Bộ Chính trị, Ban Bí thư quy định cụ thể, dẫn tới thiếu đồng bộ và tính thống nhất về mô hình tổ chức và biên chế cán bộ kéo dài trong nhiều nhiệm kỳ. Để khắc phục tình trạng trên, Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa X đã tham mưu, giúp Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 106-QĐ/TW, ngày 21-11-2007, về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương; phối hợp với các ban đảng ở Trung ương tham mưu, giúp Ban Bí thưban hành Quy định số 222-QĐ/TW, ngày 8-5-2009, về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách tham mưu giúp việc tỉnh ủy, thành ủy. Qua đó giúp cho việc kiện toàn mô hình tổ chức bộ máy cơ quan ủy ban kiểm tra các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương được đồng bộ, thống nhất trong toàn ngành kiểm tra đảng.
Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật trong Đảng là một mặt hoạt động của công tác xây dựng Đảng, nhưng có đặc thù riêng, như: đảng viên, tổ chức đảng vừa là đối tượng kiểm tra, vừa là chủ thể kiểm tra; quá trình kiểm tra và tự kiểm tra gắn bó chặt chẽ với nhau; được tiến hành trong hệ thống tổ chức đảng và thực hiện theo quy trình cụ thể; mọi dấu hiệu, hành vi, vụ việc có liên quan đến đối tượng kiểm tra đều được đặt lên bàn nghị sự của tổ chức đảng để xem xét, làm rõ sự thật; tập trung dân chủ là nguyên tắc xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động kiểm tra. Tính chất đặc thù của công tác kiểm tra đòi hỏi công tác xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra cũng phải mang tính đặc thù, từ các khâu: quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, bố trí, sử dụng, điều động, thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ kiểm tra. Xuất phát từ đặc điểm, yêu cầu đó, Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa X đã tích cực tham mưu, giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành quyết định, quy định, đồng thời chỉ đạo thực hiện các khâu trong xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra. Ban Bí thư ban hànhThông báo kết luận số 312-TB/TW, ngày 9-3-2010, về luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp về làm công tác kiểm tra, giám sát và luân chuyển lãnh đạo ủy ban kiểm tra các cấp sang công tác ở các ngành, các cấp để đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ kiểm tra, nhằm chủ động trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận ủy ban kiểm tra từ cấp huyện trở lên. Cùng với việc được hưởng phụ cấp nghề, ngày 25-11-2009, Ban Bí thư đã ban hành Kết luận số 59-KL/TW về chế độ, chính sách phụ cấp thâm niên nghề đối với cán bộ, công chức ngành kiểm tra đảng (được hưởng từ ngày 01-01-2009). Theo đề nghị của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, ngày 27-11-2009, Bộ Nội vụ có Quyết định số 1381/QĐ-BNV về việc ban hành mã số ngạch kiểm tra của Đảng, là ban đảng Trung ương duy nhất có mã ngạch riêng. Trên cơ sở Quyết định của Ủy ban Kiểm tra Trung ương về tiêu chuẩn chức danh, ngạch kiểm tra đảng và được Ban Bí thư giao, Ủy ban Kiểm tra Trung ương chủ trì phối hợp với các cơ quan có liên quan tổ chức thi nâng ngạch từ kiểm tra viên lên kiểm tra viên chính cho 336 đồng chí và từ kiểm tra viên chính lên kiểm tra viên cao cấp cho 135 đồng chí. Ủy ban Kiểm tra Trung ương cũng là đơn vị duy nhất trong các ban đảng Trung ương được giao tổ chức thi nâng ngạch riêng cho cán bộ trong ngành. Trong nhiệm kỳ khóa X, Ủy ban Kiểm tra Trung ương tiếp tục phối hợp với Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh mở 4 lớp cử nhân chuyên ngành kiểm tra cho 190 học viên(2). Sự quan tâm của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã động viên, khích lệ, tạo sự phấn khởi trong đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra.
Công tác đối ngoại của Ủy ban Kiểm tra Trung ương được triển khai nhằm tăng cường nghiên cứu, học tập và trao đổi kinh nghiệm trong công tác kiểm tra, giám sát, phòng chống tham nhũng với tổ chức đảng, cơ quan nhà nước và ủy ban kiểm tra của một số đảng trên thế giới(3). Trước Đại hội X, các đoàn ra do Ủy ban Kiểm tra Trung ương tổ chức chủ yếu đi các nước xã hội chủ nghĩa, Lào và Cam-pu-chia. Trong quan hệ đối ngoại, mới có Biên bản Hợp tác giữa Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam với Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào(4), việc tổ chức các đoàn ra khác do Ủy ban Kiểm tra Trung ương đề xuất với Ban Bí thư thông qua Ban Đối ngoại Trung ương. Trong các nhiệm kỳ trước, do kinh phí có hạn nên số thành viên đoàn ra thường dưới 10 người, chưa được tham dự các lớp học tập tại các trường, lớp của bạn (trừ Trung Quốc), nên hiệu quả giúp cho việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ còn hạn chế. Thực hiện "chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế"(5), Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa X đã sớm định hướng mở rộng quan hệ đối ngoại với các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước trên thế giới để đưa cán bộ kiểm tra đi bồi dưỡng, học tập ở nước ngoài bằng kinh phí của bạn (ngoài Đề án 165 của Ban Tổ chức Trung ương). Thông qua "kênh ngoại giao" của lãnh đạo Ủy ban Kiểm tra Trung ương, được sự giúp đỡ của Ban Đối ngoại Trung ương, Bộ Ngoại giao, Đại sứ quán các nước Ô-xtrây-li-a, Trung Quốc và Xin-ga-po và Đại sứ quán Việt Nam tại Ô-xtrây-li-a, Trung Quốc và Xin-ga-po, 3 nước đã có văn bản đồng ý giúp đào tạo cán bộ cho Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam(6). Hoạt động đối ngoại của Ủy ban Kiểm tra Trung ương nhiệm kỳ qua đã góp phần nâng cao nhận thức, mở rộng hiểu biết, bổ sung kiến thức, nghiệp vụ trong công tác kiểm tra, giám sát cho đội ngũ cán bộ của Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương và một số cán bộ lãnh đạo ủy ban kiểm tra các tỉnh ủy, thành ủy, đồng thời tạo được tiền đề cho việc cử cán bộ kiểm tra đi học tập ở nước ngoài cho nhiệm kỳ tới.
Tuyên truyền, phổ biến công tác kiểm tra, giám sát của Đảng là một bộ phận trong công tác tư tưởng - lý luận của Đảng, là phương thức lãnh đạo của Đảng. Bên cạnh kết quả đạt được, hoạt động tuyên truyền về công tác kiểm tra, giám sát chưa được quan tâm tổ chức tốt do nhiều nguyên nhân, nhất là do chưa có cơ chế phối hợp và cung cấp thông tin giữa cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp với cơ quan tuyên truyền, báo chí. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa X về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng và để khắc phục những hạn chế, yếu kém trong tuyên truyền về công tác kiểm tra, Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì phối hợp với Ủy ban Kiểm tra Trung ương và một số cơ quan chức năng đã tham mưu, giúp Ban Bí thư ban hành Thông báo kết luận số 226-TB/TW, ngày 3-3-2009, về tăng cường tuyên truyền, phổ biến công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Thực hiện Thông báo kết luận của Ban Bí thư, ủy ban Kiểm tra Trung ương đã sớm thành lập Ban Tuyên truyền, ban hành Quy chế về Người phát ngôn, chỉ đạo ủy ban kiểm tra các tỉnh ủy, thành ủy tham mưu cho cấp ủy tổ chức triển khai quán triệt và tổ chức thực hiện. Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thực hiện việc cung cấp thông tin cho báo chí kết quả các kỳ họp thứ 27, 28, 29, 31, được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm, nhất là trong cán bộ, đảng viên, cán bộ hưu và cựu chiến binh hoan nghênh "là một luồng gió mới trong sinh hoạt chính trị của đất nước"(7). Báo cáo của ủy ban kiểm tra các tỉnh, thành ủy cho thấy việc công khai kết quả các kỳ họp của Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã có tác dụng tốt trong dư luận và có tác dụng tích cực trong giáo dục cán bộ, đảng viên, góp phần quan trọng chủ động phòng ngừa, răn đe những lỗi vi phạm của cán bộ, đảng viên. Thực hiện Thông báo kết luận của Ban Bí thư, các báo, đài ở Trung ương và địa phương, Tạp chí Kiểm tra đã có nhiều tin, bài về hoạt động kiểm tra, giám sát; đăng tải tuyên truyền các văn bản mới ban hành của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ủy ban Kiểm tra Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; giới thiệu cá nhân, điển hình qua kết quả kiểm tra, giám sát ở địa phương, đơn vị, qua đó đã góp phần định hướng dư luận, tạo sự đồng thuận và niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Tuy nhiên, một số tổ chức đảng, đảng viên được kiểm tra, giám sát chưa có sự đồng thuận cao về kết luận kiểm tra, cá biệt có đối tượng bị kỷ luật đảng có phản ứng.
Trong bối cảnh quốc tế và trong nước có rất nhiều khó khăn, thách thức, nhất là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, toàn đảng, toàn dân ta đã nỗ lực phấn đấu, đạt được những thành tựu quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ do Đại hội X của Đảng đề ra. Những kết quả đó gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng và kết quả xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó có công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Phát huy những thành tích và kết quả đạt được trong nhiệm kỳ 2001 - 2006, Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa X đã chỉ đạo quyết liệt, đương đầu với những lĩnh vực, những nơi có khó khăn, phức tạp, khó vào, vụ việc bức xúc trong xã hội, những lĩnh vực, đơn vị lâu nay ít được kiểm tra, mang tính nhạy cảm; tính chất, mức độ các cuộc kiểm tra sâu sát hơn, quyết liệt hơn. Chỉ đạo, hướng dẫn cấp ủy, ủy ban kiểm tra cấp dưới kiểm tra xem xét, giải quyết theo thẩm quyền các vụ việc nổi cộm, bức xúc, những nơi có vấn đề nội bộ mà dư luận quan tâm, xử lý kiên quyết, triệt để vi phạm của đảng viên và tổ chức đảng(8). Qua đó đã góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, ngăn ngừa, hạn chế sai phạm của tổ chức đảng và đảng viên; đồng thời phát hiện những vấn đề bất hợp lý về cơ chế, chính sách để đề nghị bổ sung, sửa đổi kịp thời. Kết quả công tác kiểm tra, giám sát đã góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, phòng ngừa lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng kinh tế hợp lý, bảo đảm an sinh xã hội, đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng.
Tuy nhiên, qua công tác kiểm tra, giám sát cho thấy tình hình vi phạm kỷ luật đảng trong nhiệm kỳ này vẫn đáng lo ngại, đó là: những biểu hiện mất dân chủ, cục bộ, "bằng mặt chưa bằng lòng" trong quan hệ của một số thường trực cấp ủy thông qua việc bố trí, sắp xếp cán bộ, thực hiện các dự án đầu tư, tiềm ẩn những phức tạp khi bước vào đại hội. Một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành còn thiếu gương mẫu trong việc giữ gìn phẩm chất, đạo đức, lối sống; bản thân và gia đình (vợ, con), người thân của một số cán bộ lãnh đạo từ cấp huyện trở lên làm giàu quá nhanh, làm cho quần chúng bất bình. Tự phê bình và phê bình giảm sút, ai cũng lên án trên lời nói những tiêu cực, nhưng ít được các tổ chức đảng và những người có trách nhiệm phát hiện, xem xét, giải quyết. Một số cán bộ, đảng viên không chịu rèn luyện, tu dưỡng, cơ hội, thực dụng, phai nhạt lý tưởng cách mạng, "tự suy thoái", "tự chuyển hóa", tham nhũng, quan liêu.
Năm 2010, nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt của Ủy ban Kiểm tra Trung ương và ủy ban kiểm tra các cấp là phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng. Tại Hội nghị cán bộ kiểm tra toàn quốc triển khai quán triệt Chỉ thị số 37-CT/TW của Bộ Chính trị và 4 hướng dẫn của Ủy ban Kiểm tra Trung ương về phục vụ đại hội Đảng, Ủy ban Kiểm tra Trung ương kết luận một số vấn đề then chốt trong việc phục vụ đại hội Đảng:
- Phối hợp với các ban tham mưu của Đảng giúp cấp ủy các cấp chuẩn bị tốt nhân sự cấp ủy khóa mới và nhân sự đoàn đại biểu đi dự đại hội cấp trên, bảo đảm cấp ủy khóa mới gồm những đồng chí tiêu biểu về phẩm chất, năng lực và có đủ sức khỏe, thực hiện thắng lợi toàn diện nghị quyết đại hội đảng bộ cấp mình và nghị quyết Đại hội XI của Đảng; đại biểu dự đại hội đại biểu đảng bộ cấp trên gồm những đồng chí tiêu biểu, đại diện cho đảng bộ, có khả năng đóng góp vào sự thành công của đại hội cấp trên.
- Các cấp ủy phải lãnh đạo, tập trung giải quyết những vấn đề tồn đọng, nổi cộm, bức xúc mà cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm để chỉ đạo thẩm tra, xác minh, kết luận giải quyết triệt để trước khi tiến hành đại hội, như việc mất đoàn kết nội bộ, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, vi phạm phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; vi phạm quản lý đất đai, xây dựng cơ bản, khai thác tài nguyên khoáng sản, mua sắm tài sản công...; kịp thời giải quyết các đơn thư tố cáo, nhất là đối với cán bộ, đảng viên có liên quan đến nhân sự cấp ủy và đại biểu đi dự đại hội cấp trên. Tất cả phải được đặt lên bàn nghị sự, phải làm cho công khai, minh bạch, trường hợp cán bộ có sai phạm nghiêm trọng thì xử lý nghiêm minh và cử người thay trước khi tổ chức đại hội. Nếu đảng bộ nào chưa giải quyết xong các vụ việc còn tồn đọng, nổi cộm, bức xúc thì chưa tổ chức đại hội.
- Việc lựa chọn, giới thiệu nhân sự cấp ủy khóa mới căn cứ vào tiêu chuẩn chung của cán bộ được quy định trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII về chiến lược cán bộ. Trước "Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu chưa được ngăn chặn, đẩy lùi"(9), đối với cấp ủy viên được bầu trong nhiệm kỳ này từ xã, huyện, tỉnh và tương đương trở lên phải đặc biệt chú ý lựa chọn những người không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng; có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao; luôn luôn nêu cao ý thức tổ chức kỷ luật, tôn trọng và thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, nêu cao tính tự phê bình, phê bình; gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm; có phong cách làm việc sâu sát cơ sở, nói đi đôi với làm. Có như vậy, cấp ủy được bầu mới trong sạch và vững mạnh, mới đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi được tham nhũng, quan liêu, lãng phí.
Phát huy những thành tích và kết quả đạt được từ đầu nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng đến nay và truyền thống "Tuyệt đối trung thành, đoàn kết, trung thực, liêm khiết, kỷ cương và tận tụy", đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp ra sức tu dưỡng rèn luyện, nỗ lực phấn đấu, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phục vụ đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân./.
_______________
Nguyễn Văn Chi
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm ủy ban Kiểm tra Trung ương
(1) Ủy ban Kiểm tra Trung ương tham mưu, giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư xây dựng chương trình kiểm tra hằng năm và thành lập 31 đoàn kiểm tra của Ban Bí thư kiểm tra ở 31 địa phương, đơn vị; cấp ủy các cấp đã thành lập trên 400 đoàn, trực tiếp kiểm tra trên 1.000 tổ chức đảng
(2) Nhiệm kỳ khóa IX mở 1 lớp, 50 học viên
(3) Từ năm 1959 đến nay (tháng 6-2010), Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã đón 42 đoàn vào, đồng thời cử 37 đoàn ra, riêng trong nhiệm kỳ khóa X đã cử 16 đoàn ra; có 493 lượt cán bộ được cử ra nước ngoài, trong đó nhiệm kỳ khóa X là 146 lượt cán bộ
(4) Ủy ban Kiểm tra Trung ương hai bên đã 6 lần ký Biên bản hợp tác (thực hiện từ 3 - 5 năm), nội dung chủ yếu là trao đổi những vấn đề hai bên cùng quan tâm trong công tác xây dựng Đảng, công tác kiểm tra của Đảng; việc cử các đoàn đại biểu cấp cao, các đoàn chuyên viên vào - ra; giúp bạn đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm tra... Từ năm 1984 đến nay, Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam cử 16 đoàn sang Lào và đón 16 đoàn bạn vào Việt Nam
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr 112
(6) Trong 2 năm 2008 - 2009, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã cử 2 đoàn cán bộ kiểm tra, mỗi đoàn 25 cán bộ đi nghiên cứu, học tập về công tác phòng, chống tham nhũng tại Trường Đại học quốc gia Ô-xtrây-li-a trong thời gian 1 tháng; năm 2010 hai bên đang tiếp tục chuẩn bị thực hiện. Ủy ban Kiểm tra - kỷ luật Đảng Cộng sản Trung Quốc trong vòng 3 năm (2010 - 2012), mỗi năm mời 15 cán bộ kiểm tra sang nghiên cứu về phòng, chống tham nhũng với thời gian 15 ngày; năm 2010, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã cử 1 đoàn gồm 15 cán bộ kiểm tra sang tham dự lớp nghiên cứu, học tập về phòng, chống tham nhũng với thời gian 15 ngày tại Học viện Hành chính quốc gia Trung Quốc. Chính phủ Xin-ga-po đã đồng ý giúp Việt Nam Chương trình nghiên cứu dành cho cán bộ trung cao cấp của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lĩnh vực quản lý công và phòng, chống tham nhũng; Chương trình kéo dài trong 3 năm (2011 - 2013), mỗi năm có 2 đoàn nghiên cứu (trong đó có 1 đoàn dành riêng cho cán bộ kiểm tra đảng), mỗi đoàn từ 15 - 20 cán bộ, thời gian 15 ngày
(7) Đài Tiếng nói Việt Nam 9:23 AM, 12-01-2009
(8) Từ đầu nhiệm kỳ khóa X đến tháng 5-2010, Ủy ban Kiểm tra Trung ương kiểm tra dấu hiệu vi phạm đối với 105 đảng viên và 44 tổ chức (nhiệm kỳ IX kiểm tra 56 đảng viên và 18 tổ chức); giải quyết tố cáo 5 tổ chức và gần 300 lượt đảng viên diện Trung ương quản lý (nhiệm kỳ IX là 234 lượt); thi hành kỷ luật theo thẩm quyền và đề nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thi hành kỷ luật đối với 90 đảng viên (nhiệm kỳ Đại hội IX là 109 đảng viên); giải quyết khiếu nại theo thẩm quyền và đề nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư giải quyết đối với 164 trường hợp (Nhiệm kỳ Đại hội IX là 138 trường hợp)
Ủy ban kiểm tra các cấp kiểm tra dấu hiệu vi phạm đối với gần 60 nghìn đảng viên và 12 nghìn tổ chức đảng; giải quyết tố cáo trên 600 tổ chức và gần 16 nghìn lượt đảng viên; thi hành kỷ luật theo thẩm quyền và đề nghị cấp ủy thi hành kỷ luật gần 1.400 tổ chức và gần 62 nghìn đảng viên; giải quyết khiếu nại theo thẩm quyền và đề nghị cấp ủy giải quyết đối với gần 1.700 trường hợp
(9) Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr 170 - 171