Thứ Bảy, 21/9/2024
Tuyên truyền
Thứ Tư, 2/9/2009 12:39'(GMT+7)

Đảng đổi mới lãnh đạo kinh tế, thành tựu và những vấn đề đang đặt ra

Toàn cảnh nhà máy lọc dầu Dung Quất (Anh TD)

Toàn cảnh nhà máy lọc dầu Dung Quất (Anh TD)

Sau ngày giải phóng miền Nam 1975, một yêu cầu khách quan đặt ra là cả nước phải tiến lên chủ nghĩa xã hội không chỉ về chính trị mà cả trong xây dựng phát triển nền kinh tế. Trước thực trạng kinh tế của hai miền Nam, Bắc: miền Nam vốn là một nền kinh tế hỗn hợp giữa sản xuất hàng hóa nhỏ đa sở hữu do thời kỳ thực dân Pháp đô hộ để lại với kinh tế thực dân kiểu mới do Mỹ du nhập. Kinh tế miền Bắc sau 20 năm giải phóng (1954 - 1974), tuy đã có một bước phát triển nhưng vẫn là một nền sản xuất nhỏ lạc hậu được xây dựng trên mô hình kinh tế của Liên Xô cũ và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Thực chất nó là một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp.

Từ thực trạng kinh tế trên đây, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV đã chủ trương xây dựng trong cả nước một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa (XHCN) theo mô hình "kế hoạch hóa tập trung cao" chủ yếu với hai hình thức sở hữu nhà nước và tập thể, tổ chức sản xuất kinh doanh theo các loại hình xí nghiệp quốc doanh và xi nghiệp hợp tác xã, thực hiện phân phối theo cơ chế quản lý hành chính bao cấp. Chủ trương này đưa vào thực hiện không lâu đã bộc lộ sự không phù hợp với tình hình mới về yêu cầu phát triển của nền kinh tế nước ta. Do đó, nó dẫn nền kinh tế đi dần vào ngõ cụt, không phát triển được, thậm chí có mặt tụt lùi so với trước, gây ra tình trạng khủng hoảng kinh tế trong nhiều năm không khắc phục được.

Để đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, Nghị quyết Trung ương 6 (khóa IV) tháng 8/1979 đã nhận định tổng quát về thực trạng kinh tế nước ta, trong những năm cuối thập kỷ 70 như sau: chúng ta đang đứng trước nhiều khó khăn về kinh tế và đời sống, sản xuất phát triển chậm (tốc độ tăng tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân dưới 1%/năm), năng suất lao động quá thấp, đời sống nhân dân thiếu thốn, nhiều hiện tượng trong xã hội có tính tiêu cực nghiêm trọng. Để khắc phục tình trạng trên đây Nghị quyết Trung ương 6 (khóa IV) đã chỉ ra phải nghiên cứu để cải tiến một bước cơ bản các chính sách kinh tế, trước hết là chính sách lưu thông phân phối, khắc phục tình trạng không ăn khớp giữa chính sách đề ra và tình hình thực tế của sản xuất và đời sống xã hội. Chống tư tưởng chủ quan, bảo thủ, không dám nhìn thẳng vào những thiếu sót trong chính sách, đồng thời phải nghiêm túc nghiên cứu các mặt khi xác định chính sách mới để tránh mắc phải sai lầm. Nghị quyết Trung ương 6 (khóa IV) không chỉ xác định thực trạng bế tắc của nền kinh tế nước ta lúc đó mà còn chỉ ra định hướng tư duy mới cho nền kinh tế nước ta nhằm làm cho sản xuất "bung ra". Sau Nghị quyết Trung ương 6 (khóa IV), Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (tháng 3 năm 1982) đã quyết định một số vấn đề rất cơ bản về đổi mới lãnh đạo kinh tế, đặc biệt là chủ trương chuyển nền kinh tế bao cấp sang sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, phát triển theo định hướng XHCN, đi đôi với điều chỉnh và xác định nội dung công nghiệp hóa ở chặng đường đầu của đất nước - coi sản xuất nông nghiệp là mặt trận hàng đầu; tích cực cải tiến công tác phân phối lưu thông, tháo gỡ khó khăn vướng mức để phục vụ tốt cho sản xuất "bung ra" và cải thiện một bước đời sống nhân dân.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V chủ trương chuyển nền kinh tế nước ta sang sản xuất hàng hóa là yêu cầu bức bách đặt ra lúc đó. Kinh tế hàng hóa hay còn gọi là kinh tế thị trường là thành tựu văn minh của nhân loại và đang là xu thế phát triển kinh tế khách quan của các nước trên thế giới trong thời đại ngày nay. Chuyển nền kinh tế bao cấp của nước ta sang nền sản xuất hàng hóa nhiều thành phần phát triển theo định hướng XHCN là phù hợp quy luật khách quan và đáp ứng đúng nguyện vọng của nhân dân ta về đổi mới phát triển kinh tế trong giai đoạn mới.

Mở đầu cho hướng đi nói trên, Đảng đã chủ trương thực thi chính sách khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong nông nghiệp theo tinh thần Chỉ thị 100CT - TƯ. Thực hiện chính sách "Kế hoạch 3 phần" theo tinh thần Chỉ thị 25 - CP trong lĩnh vực công nghiệp, chuyển dần sang hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, đồng thời cải tiến mạnh phân phối lưu thông. Những chủ trương chính sách trên đây đã có tác động tốt, tạo ra một bước chuyển biến trong nông nghiệp và công nghiệp ở thời kỳ (1981 - 1985) Sản xuất nông nghiệp tăng trưởng bình quân 4,9%/năm. Các xí nghiệp kinh tế quốc doanh bước đầu có một số quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh phát triển kinh tế hàng hóa.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986) đưa ra chủ trương đổi mới toàn diện và đề ra ba chương trình kinh tế lớn đó là: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, xem đây là mũi nhọn phát triển kinh tế trong thời kỳ mới; đồng thời chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế quản lý mới, áp dụng những biện pháp kích thích sản xuất, mở rộng giao lưu hàng hóa, xóa bỏ tình trạng ngăn sông cấm chợ, chia cắt thị trường. Tiếp tục phát triển và mở rộng việc thực thi nhiều chính sách kinh tế mới như: Khoán 10 trong nông nghiệp, Quyết định 217/QĐ của Hội đồng Chính phủ trong cả nước theo cơ chế một giá; chính sách mở rộng kinh tế đối ngoại mở cửa thị trường… Các chính sách kinh tế mới trên nhanh chóng đi vào cuộc sống và tạo ra những chuyển biến quan trọng của nền kinh tế nước ta ở thời kỳ 1986 - 1990: sản xuất nông nghiệp tăng trưởng khá mạnh, bảo đảm đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn xuất khẩu trung bình hàng năm ở thời kỳ này từ 1 đến 1,5 triệu tấn gạo. Các xí nghiệp công nghiệp được nhà nước giao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh tự chủ về tài chính thực hiện độc lập hạch toán kinh tế, tự chịu trách nhiệm lỗ lãi đã có cơ hội để phát triển và nhanh chóng chuyển sang kinh tế thị trường. Lưu thông hàng hóa được thông suốt cả nước trên cơ sở thống nhất một giá. Thị trường nội địa thống nhất được hình thành tạo môi trường cho kinh tế hàng hóa phát triển cả trong nông nghiệp và công nghiệp.

Nhịp cầu nối những bờ vui


Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1990) đề ra cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Tiếp tục khẳng định và hoàn thiện đường lối đổi mới kinh tế do Đại hội VI đề ra. Về phát triển kinh tế, Đại hội VII khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN; trong đó kinh tế quốc doanh là chủ đạo, kinh tế quốc doanh cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII) (tháng 1 - 1994) đề ra chủ trương về công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước trong thời kỳ mới và khẳng định "phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt".

Sau Đại hội VII những động lực mới đã thúc đẩy kinh tế tăng trưởng với mức độ cao và bền vững ở thời kỳ (1991 - 1995), tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân 7,9%/năm tạo điều kiện cho đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội và chuyển sang giai đoạn phát triển mới.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (tháng 6/1996) khẳng định nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và chỉ rõ mục tiêu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Đại hội VIII cũng làm rõ hơn định hướng XHCN trong việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Từ năm (1997 - 1999) thiên tai dồn dập diễn ra gây thiệt hại lớn đối với nhiều vùng của đất nước, cộng vào đó cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Đông Nam Á và một số nước trên thế giới đã tác động mạnh làm cho nền kinh tế nước ta đứng trước những khó khăn mới. Hội nghị Trung ương 8 khóa VIII (tháng 12/1999) đã đánh giá đúng tình hình, xác định những chủ trương và giải pháp mới nhằm ổn định chính trị và tiếp tục phát triển kinh tế xã hội.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (tháng 4/2001) định ra chiến lược phát triển đất nước trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI, với phương hướng tổng quát là "phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN" khẳng định mục tiêu chung của cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay là "Độc lập dân tộc gắn liền với CHXN, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh"; đồng thời cũng khẳng định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của cả thời kỳ quá độ; chỉ rõ nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay là đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chống nghèo nàn, lạc hậu, khắc phục tình trạng nước nghèo, chậm phát triển; thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH theo định hướng XHCN làm cho nước ta trở thành một nước XHCN phồn vinh. Hội nghị Trung ương 5 khóa IX ra Nghị quyết: Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân, đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010. Khẳng định kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng, mà nòng cốt là Hợp tác xã, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể liên kết rộng rãi người lao động, các hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp không giới hạn quy mô, lĩnh vực, địa bàn; phân phối theo lao động, vốn và mức độ tham gia dịch vụ. Phát triển kinh tế tư nhân là chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; kinh tế tư nhân được phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm, không hạn chế về quy mô; những đảng viên đang làm chủ các doanh nghiệp tư nhân chấp hành tốt Điều lệ Đảng và pháp luật, chính sách của Nhà nước thì vẫn là đảng viên của Đảng; Đại hội IX cũng nhấn mạnh việc phát triển nền kinh tế nước ta ở những thập niên đầu thế kỷ XXI, phải tạo ra bước tiến rõ rệt về chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, chủ động và khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế. Những chủ trương chính sách kinh tế mới của Đại hội IX và các Nghị quyết Trung ương (khóa IX) đề ra đã nhanh chóng đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng tích cực tạo nhiều cơ hội cho nền kinh tế vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, bình quân trong 5 năm (2001 - 2005) là 7,51% và phát triển tương đối toàn diện; lương thực xuất khẩu hàng năm từ 4 đến 5 triệu tấn gạo. Đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện, đặc biệt là thành tựu về xóa đói giảm nghèo, chúng ta đã đạt chuẩn quốc tế vào năm 2003.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (tháng 4/2006) đã xác định năm năm (2006 - 2010) có ý nghĩa quyết định đối với việc hoàn thành chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu của thế kỷ XXI và đề ra mục tiêu phương hướng tổng quát trong lãnh đạo, chỉ đạo tiếp tục đổi mới nền kinh tế đó là: nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho CNH, HĐH đất nước… sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Từ mục tiêu tổng quát trên trong lĩnh vực kinh tế Đại hội X chỉ rõ một số quan điểm lớn về đổi mới như: Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế trí thức, đây là thể hiện bước tiến về nhận thức của Đảng ta, bắt kịp xu thế thời đại phát triển mới của thế giới. Về các thành phần kinh tế Đại hội X chỉ rõ có 5 thành phần đó là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo - là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Đại hội X chủ trương phát triển nhanh hơn công nghiệp và xây dựng theo hướng nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh và hiện đại hóa; tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ; tạo bước ngoặt về hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại cùng với nhiều chính sách cụ thể khác về đổi mới phát triển kinh tế trong giai đoạn mới.

Khu bồn chứa của nhà máy lọc dầu Dung Quất


Trong 2 năm (2006 - 2007) thực hiện Nghị quyết Đại hội X theo đánh giá của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 9 (khoá X) thì lĩnh vực kinh tế, tốc độ tăng trưởng GDP đạt mức cao, năm 2006 là 8,23%; năm 2007 là 8,48%. Năm 2008 do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 6,23%, bình quân 3 năm (2006 - 2008) đạt 7,6%/năm; nông nghiệp được mùa, nước ta đã trở thành thành viên tổ chức thương mại quốc tế WTO, tạo điều kiện cho nền kinh tế nước ta vươn xa hơn trong cộng đồng thế giới. Năm 2009 do tác động mạnh của khủng hoảng kinh tế, tài chính thế giới, tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm sút, nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, 6 tháng đầu năm tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 4,1%, dự kiến cả năm 2009 đạt 5%/năm. Các thành phần kinh tế vẫn tiếp tục phát triển; thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN tiếp tục được triển khai xây dựng và từng bước hoàn thiện; đời sống nhân dân vẫn được duy trì và bảo đảm, không có những xoá trộn lớn. Trước tình hình khó khăn của nền kinh tế hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời đưa ra nhiều giải pháp kinh tế tích cực để khắc phục các mặt còn hạn chế, đặc biệt là khắc phục lạm phát, tăng giá và nguy cơ suy thoái kinh tế, nhằm sớm đưa nền kinh tế trở lại phát triển bình thường vào năm 2010.

Những thành tựu thu được từ đường lối đổi mới kinh tế của Đảng hơn 20 năm qua chúng ta có thể rút ra một số kết luận sau đây:

Một là, đường lối đổi mới kinh tế đề ra trong từng thời kỳ là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp quy luật khách quan và đáp ứng được lòng mong muốn của nhân dân ta. Vì vậy nó đã đem lại kết quả đáng khích lệ và tạo khả năng cho nền kinh tế phát triển tốt hơn trong những năm tới.

Hai là, trong quá trình đổi mới kinh tế Đảng ta đã trân trọng và lắng nghe ý kiến, sáng kiến và cách làm sáng tạo của quần chúng nhân dân, biết dựa vào dân, biết chắt lọc ý kiến đóng góp, tổng kết khái quát, nên đã có những quyết sách đúng, những chủ trương phù hợp, kịp thời, nhất là vào những thời điểm khó khăn có tính bước ngoặt.

Ba là, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc rằng đổi mới kinh tế phải vì lợi ích của nhân dân, phát huy vai trò chủ động sáng tạo của nhân dân và phù hợp với thực tiễn đất nước.

Bốn là, đường lối đổi mới kinh tế của Đảng ta là đường lối độc lập tự chủ, sáng tạo xuất phát từ thực tiễn nước ta, có tham khảo kinh nghiệm của các nước khác một cách có chọn lọc, không sao chép giáo điều. Vì vậy đường lối ấy hợp quy luật khách quan, thuận lòng dân, nên đã nhanh chóng đi vào cuộc sống và đạt kết quả tốt nhất.

II. Một số vấn đề đặt ra trong đổi mới lãnh đạo kinh tế ở giai đoạn hiện nay

Công cuộc tiếp tục đổi mới lãnh đạo kinh tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay cần quán triệt sâu sắc các vấn đề sau đây:

Một là, mọi chủ trương chính sách tiếp tục đổi mới kinh tế phải coi ưu tiên số 1 là giải phóng lực lượng sản xuất và mọi nguồn lực, mọi tiềm năng của xã hội nhằm tất cả vì mục tiêu phát triển. Đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay bảo đảm cho kinh tế tăng trưởng nhanh, phát triển bền vững là chính trị trọng đại số 1, là nhiệm vụ trung tâm. Bởi vì không như thế sẽ không tránh khỏi tụt hậu và sớm có CNXH.

Hai là, lãnh đạo thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ song song: CNH, HĐH gắn liền với phát triển kinh tế tri thức và phát triển mạnh nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đây là hai nhiệm vụ quan trọng nhất trong giai đoạn mới, có quan hệ biện chứng với nhau; cần phải nhận thức sâu sắc rằng thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trước mắt, cũng như lâu dài không thể tách rời với sự phát triển ngày càng hiện đại của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. CNH, HĐH nhằm phát triển và hiện đại hóa lực lượng sản xuất tạo điều kiện cho kinh tế hàng hóa phát triển đồng đều và ngày càng cao trong cả nước; ngược lại kinh tế thị trường phát triển mạnh làm tăng tổng sản phẩm xã hội có điều kiện tăng cường xuất khẩu hàng hóa, thu ngoại tệ, mua sắm thiết bị hiện đại, đổi mới công nghệ sản xuất, tạo điều kiện từng bước hiện đại hóa lực lượng sản xuất. Do đó một trong những vấn đề có tính "hạt nhân" của sự tiếp tục đổi mới lãnh đạo kinh tế của Đảng là đề ra và thực hiện được những chính sách kinh tế có tác động tích cực thúc đẩy mạnh nền kinh tế thị trường phát triển đi theo định hướng XHCN và thực hiện có hiệu quả các chính sách CNH, HĐH đất nước để từng bước thực hiện được mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Bởi vậy những chủ trương và chính sách kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước đề ra và đưa vào thực thi trong những năm trước mắt cũng như lâu dài có tâm vóc vị trí chiến lược quan trọng đối với sự nghiệp phát triển nền kinh tế nước ta.

Ba là, phải giải quyết tốt mâu thuẫn giữa nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế với yêu cầu bắt buộc phải tiến lên theo kịp các nước tiên tiến trên thế giới. Trong thời đại ngày nay muốn sánh vai cùng các nước trên thế giới không thể để cho nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Bốn là, ngăn chặn và đẩy lùi những nguy cơ tiềm ẩn có thể đưa nền kinh tế nước ta đi chệch định hướng XHCN.

Năm là, lãnh đạo phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát triển. Vì đây là một đặc trưng đặc tính cơ bản của định hướng XHCN nền kinh tế thị trường ở nước ta, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội ta.

Sáu là, nhanh chóng khắc phục nguy cơ tiềm ẩn suy thoái kinh tế do tác động của khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới, quyết tâm giảm tỷ lệ lạm phát và tăng giá xuống một con số; bảo đảm và nâng cao đời sống dân sinh cả về vật chất và tinh thần.

Bảy là, nâng cao năng lực lãnh đạo kinh tế của Đảng, đặc biệt là những vấn đề sau đây:

- Nâng cao năng lực định hướng sự phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta, có căn cứ khoa học cho những năm tới, bảo đảm từng bước vững chắc tiến lên CNXH.

- Nâng cao năng lực nắm vững các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước ta, đề ra những chủ trương, chính sách kinh tế đúng đắn, khai thác được tối đa những tiềm năng trong nước và ngoài nước cho sự nghiệp phát triển kinh tế và thực hiện thắng lợi nhiệm vụ CNH, HĐH đất nước trong từng thời kỳ phát triển của đất nước.

- Nâng cao năng lực lãnh đạo Nhà nước và nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện thành công các chính sách đổi mới kinh tế trong bất cứ tình huống khó khăn nào.

Với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự đoàn kết nhất trí của toàn dân tộc, chúng ta nhất định sẽ thành công trong sự nghiệp đổi mới kinh tế đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, tiên tiến vào năm 2020 như Nghị quyết của Đảng lần thứ X đã đề ra và thực hiện thắng lợi mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".

  • PGS. TS Cao Duy Hạ (Học viện CT - HC QG Hồ Chí Minh )
Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất