Thực tế của gần 80 năm qua kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đến nay đã hoàn toàn chứng minh sự đúng đắn cho điều đó.
Như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận của toàn thể dân tộc Việt Nam. Vấn đề mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản – Giai cấp công nhân – Nhân dân, Dân tộc Việt Nam là mối quan hệ “3 trong 1”, mỗi thành tố đều nằm trong một cái chung không thể tách rời. Chính vì lẽ đó, mối quan hệ giữa Đảng với dân là mối quan hệ “máu thịt”. Hơn thế nữa, nhiều người, trong khi phân tích cơ sở lý luận, khoa học còn nâng vấn đề “Bảo đảm và tăng cường mối quan hệ bền chặt giữa Đảng với dân” lên thành một nguyên tắc xây dựng đảng cộng sản nói chung và xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền nói riêng.
Mỗi một thành tố đều có chức năng, nhiệm vụ riêng, đều có “sứ mệnh” riêng. Chẳng hạn, giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam; nhân dân Việt Nam uỷ quyền, giao trách nhiệm lãnh đạo cách mạng cho Đảng. Tất cả những thành tố đó cũng như sự hoạt động, sự tương tác của chúng đều có tính hướng đích: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là xây dựng một nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Tất cả các tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ cấp cao nhất cho đến cấp cơ sở, đều hoạt động trên cái nền nhân dân, vì lợi ích của nhân dân. Cấp cơ sở là cấp cuối cùng trong hệ thống bộ máy Đảng, cũng như các chi bộ-các tế bào của Đảng, là tổ chức gần dân nhất, nằm trong nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân. Mọi cách hiểu coi tổ chức cơ sở Đảng như là tổ chức trung gian giữa Đảng với dân (nghĩa là cái cầu nối giữa Đảng với dân) đều không phù hợp với cả lý luận lẫn thực tiễn. Nếu quan niệm rằng, tổ chức cơ sở Đảng có chức năng, nhiệm vụ của cái cầu nối giữa Đảng với dân thì, vô hình trung, đã đặt Đảng một bên và dân một bên.
2. Vấn đề dân và trách nhiệm của dân đối với Đảng
Quan niệm dân của phong kiến có thể diễn tả sơ lược nhất là: Nho giáo Trung Quốc chia xã hội làm hai loại người: quân tử và tiểu nhân. Thường là dân thuộc loại tiểu nhân, những người hèn kém, những người lao động chân tay, những phụ nữ. Còn quân tử là những trí thức quan lại. Vua là Thiên tử (con trời), quan lại là phụ mẫu (cha mẹ) sinh ra để chăn dắt dân. Nho giáo vào Việt Nam cũng đã “Việt Nam hoá” một phần do điều kiện chi phối của hoàn cảnh. Nguyễn Trãi cho rằng, chở thuyền và lật thuyền đều do dân. Trần Hưng Đạo nói rằng, phải nới sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, v.v. Tư tưởng tiến bộ của hai ông vượt thời đại phong kiến. Nhưng, rốt cục trên thực tế, dân vẫn chỉ là đối tượng để các quan “phụ mẫu” chăn dắt nhằm phục vụ cho quyền lợi của giai cấp phong kiến.
Quan niệm về dân của các nhà dân chủ tư sản Việt Nam có tiến bộ hơn phong kiến, nhưng không đầy đủ. Đáng chú ý là cách nhìn nhận của họ về dân thiếu lực lượng cơ bản nhất trong xã hội là công nhân và nông dân. Chẳng hạn, Phan Bội Châu đưa ra một quan điểm tập hợp lực lượng như sau: 1. Phú hào; 2. Quý tộc; 3. Sĩ phu; 4. Lính tập; 5. Tín đồ đạo Thiên chúa; 6. Du đồ hội đảng; 7. Nhi nữ anh sĩ; 8. Thông ngôn; 9. Ký lục; 10. Bồi bếp. Về cuối đời, Phan Bội Châu cũng đã nhìn thấy lực lượng công-nông, nhưng lực bất tòng tâm, lực đã tàn, sức đã kiệt.
Vượt lên trên những hạn chế đó, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương tập hợp tất thảy những người yêu nước vào sự nghiệp cách mạng. Cho nên, dân là những người yêu nước, không phân biệt tôn giáo, dân tộc, giàu nghèo, gái trai…, đều là những “con Rồng cháu Tiên”, đều là “đồng bào” (cùng một bọc). Như vậy, biên độ về dân rất rộng, cốt lõi là công-nông, nhưng không chỉ là công-nông trong việc xây dựng mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và dân đối với sự nghiệp cách mạng nói chung và đối với cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nói riêng. Nhìn nhận về dân, chúng ta thấy nổi lên mấy điểm sau đây:
- Nhân dân có vai trò cực kỳ to lớn trong đời sống chính trị-xã hội. Có thể nói rằng, quyền lực của dân đứng ở vị trí tối thượng trong hệ thống quyền lực của đất nước. Về vấn đề này, nếu liên hệ với thực tế Việt Nam thì trong cấu trúc quyền lực Nhà nước từ tháng 9 năm 1945 đến nay đã được ghi vào bốn bản Hiến pháp là: tất cả mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân.
- Tất cả quyền lực trong xã hội Việt Nam đều được cấu tạo trên cơ sở quyền lực của nhân dân và đều xuất phát từ vị trí, vai trò của nhân dân. Trong bản Tuyên ngôn độc lập của nước ta ngày 2-9-1945 cũng như trong các Cương lĩnh, văn kiện của Đảng ta cũng đã nêu rất rõ điều đó, kể cả vấn đề quyền con người. Quyền con người trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 được đặt trong quyền dân tộc cơ bản. Nước đã mất độc lập, tự do thì dân cũng chẳng được bảo đảm về quyền con người. Cấp độ phát triển tư duy cao hơn nữa thì là: nếu nước được độc lập rồi mà dân vẫn cứ chết đói, chết rét, dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập chẳng có nghĩa lý gì.
- Dân là chủ và dân làm chủ, dân có lợi ích và đồng thời phải có trách nhiệm (tức là quyền lợi và nghĩa vụ của dân đi đôi với trách nhiệm của dân đối với Đảng). Cả hai vế dân là chủ và dân làm chủ đều quan trọng như nhau, chúng làm thành một thể thống nhất. Dân là chủ là nói về vị thế của dân, còn dân làm chủ là nói về trách nhiệm của dân. Dân là người uỷ quyền cho Đảng, vì thế dân có trách nhiệm xây dựng Đảng, chủ yếu nhất là trên mấy mặt: góp phần xây dựng đường lối chính trị, giới thiệu người ưu tú cho Đảng để Đảng kết nạp, kiểm tra, kiểm soát cán bộ, đảng viên, v.v. Dân thờ ơ chính trị, bàng quan với đất nước, không chung sức, chung lòng lo việc nước… thì cũng coi như tự mình từ bỏ quyền làm chủ, là chủ của mình. Do đó, càng phải nhấn mạnh đến trách nhiệm công dân, tinh thần làm chủ của mình trước nhiệm vụ đối với đất nước.
3. Trách nhiệm của Đảng đối với dân.
Trách nhiệm của Đảng đối với dân, nói một cách cô đọng nhất, là phải hiếu với dân. Trong giai đoạn Đảng cầm quyền hiện nay ở nước ta, càng đứng ở vị trí cao của quyền lực, càng dễ bị xa dân. Hiếu với dân, như quan niệm của Hồ Chí Minh, là coi cán bộ, đảng viên phải là người lãnh đạo đồng thời là người đày tớ thật trung thành, là “trâu ngựa” của dân (Từ “trâu ngựa” là từ của Hồ Chí Minh dùng trong Lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam, ngày 3-3-1951, sau Đại hội II của Đảng).
Vấn đề hiếu với dân, yêu cầu Đảng phải thật sự gần dân, hiểu dân, vì dân và muốn thế, Đảng phải làm tốt công tác dân vận. Vấn đề dân vận tưởng đơn giản, dễ làm, nhưng thực tế, không phải hiện nay ở đâu, kể cả cấp cơ sở, đều làm tốt. Vẫn còn nhiều, rất nhiều hạn chế, vấp váp, do đó làm tổn hại đến uy tín của Đảng trước nhân dân. Trong lịch sử hàng chục năm đứng ở vị trí cầm quyền, vừa qua xuất hiện những hiện tượng rất mới lạ, đó là có những phản ứng gay gắt của nhân dân đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, chính quyền cấp xã, cấp huyện (Điển hình là các vụ khiếu kiện ở tỉnh Thái Bình trong các năm 1997, 1998). Hàng loạt “điểm nóng” chủ yếu xuất phát từ khiếu kiện giải quyết vấn đề nhà, đất ở nhiều địa phương, kể cả ở hai thành phố lớn nhất của cả nước là Thủ đô Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh. Đã diễn ra tình trạng dân kéo đến tụ tập ở nhiều trụ sở Đảng, chính quyền khiếu kiện rất đông người, có băng rôn, khẩu hiệu, diễn ra từng đợt và lâu dài. Đó là những vụ bạo loạn ở Tây Nguyên những năm 2001, 2004, trong đó do có cả nguyên nhân từ những khuyết điểm của công tác dân vận tích tụ lại trong nhiều năm sau năm 1975.
Vị trí và vai trò cầm quyền của Đảng đã chế định một thực tế là tuyệt đại đa số những người có chức, có quyền là đảng viên cộng sản, do đó, dễ làm cho đảng viên có chức, có quyền đó xa dân, hách dịch, cửa quyền đối với dân. Đồng thời, trên thực tế khi vận hành cơ chế thực thi quyền lực của xã hội trong vai trò cầm quyền, nhiều tổ chức Đảng và đảng viên lại không chú trọng bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của dân. Trên thực tế, vẫn xẩy ra không ít nạn cường hào mới, nạn sách nhiễu, vòi vĩnh, đòi ăn của đút lót, đặc biệt là nạn tham nhũng ngày càng tinh vi và nghiêm trọng hơn, chưa phòng và chống được một cách có hiệu quả.
Hiện nay, với tất cả sự tỉnh táo của một Đảng cầm quyền, chúng ta càng thấy rõ hơn một điều rằng, nếu Đảng xa rời dân thì Đảng sẽ đứng trước nguy cơ thoái hoá, biến chất, thậm chí dẫn đến tan rã. Khi đó, chúng ta biết rất rõ điều gì sẽ xẩy ra: mọi thành quả cách mạng mà toàn Đảng toàn dân ta đã giành được qua bao nhiêu năm tháng đầy cam go gian khổ nhưng vô cùng oanh liệt sẽ bị đổ xuống sông, xuống biển.
Từ trước đến nay, Đảng đã có rất nhiều nghị quyết, chỉ thị về tăng cường mối quan hệ giữa Đảng đối với dân. Đã có cả một cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”; có cả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; có cả bài học quan trọng mà Đại hội VI năm 1986 rút ra là “Lấy dân làm gốc”; có cả tổ chức các ban chuyên trách, tham mưu của các cấp uỷ Đảng từ Trung ương xuống đến tận cấp huyện là các Ban Dân vận. Đảng đã có Nghị quyết 8B Khoá VI chuyên về công tác vận động quần chúng. Nhà nước có một loạt luật để điều chỉnh quan hệ xã hội của các tổ chức chính trị-xã hội. Ngày 8-2-1998, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Theo đó, Chính phủ đã ban hành các Quy chế dân chủ ở cơ sở tương ứng với các loại hình ở nông thôn, cơ quan… Bấy nhiêu chủ trương, biện pháp, song hiệu quả vẫn còn thấp. Lần này, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá X còn ra Nghị quyết về xây dựng và tăng cường sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng. Điều đó phản ánh sự cố gắng cũng như quyết tâm chính trị của Đảng ta trong công tác xây dựng Đảng nói chung và trong việc tăng cường, thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với dân nói riêng. Một số người có thể đang còn có ý kiến khác nhau về vấn đề cấp nào có vai trò quan trọng hơn cấp nào trong toàn bộ hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng, nhưng có một vấn đề mà ai cũng nhất trí là nếu dân xa Đảng, Đảng xa dân thì Đảng sẽ bị mất hết sức sống, bởi vì sức mạnh của tổ chức Đảng là từ sức mạnh của nhân dân.
Vấn đề cơ bản hiện nay là hãy bắt tay vào hành động, hành động một cách tích cực, kiên quyết, có hiệu quả. Và, phải bắt đầu từ cấp cơ sở Đảng là cấp gần dân nhất. Trong hệ thống các vấn đề đặt ra hiện nay, có thể nhấn mạnh thêm một số điểm sau đây:
Một là: phải tích cực hơn nữa trong việc chống quan liêu. Hồ Chí Minh viết: “Những người phụ trách dân vận cần phải có óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc”. Bệnh quan liêu là bệnh thường hay mắc phải trong điều kiện Đảng cầm quyền; nếu cán bộ, đảng viên không chịu rèn luyện phong cách công tác cũng như nâng cao tinh thần trách nhiệm. Chính bệnh quan liêu cộng với bệnh tham ô, bệnh lãng phí đã bị Hồ Chí Minh coi là “giặc nội xâm”, “thứ giặc ở trong lòng”, nó “nguy hiểm hơn bọn Việt gian, mật thám”. Quan liêu hiện nay không chỉ có ở cấp cao mà nó xẩy ra ngay ở cấp cơ sở, cấp chi bộ.
Tôi muốn nhấn mạnh việc phải chống quan liêu là bởi vì trong cuộc sống hiện nay, vẫn còn có nhiều người khi ở vào địa vị lãnh đạo thì hành dân, ức hiếp dân, không tự đặt mình vào vị trí đày tớ, trâu ngựa của dân. Những giá trị phản văn hoá như nhũng nhiễu, tham lam trong cuộc sống hiện đại vẫn còn rất nhiều. Trong cuộc sống hiện nay, khi mà những tiến bộ của khoa học và công nghệ cho phép giao tiếp của con người nhanh hơn, phong phú hơn thì chính bi kịch lại diễn ra: người lãnh đạo dễ bị xa dân nhất. Cách đây mấy chục năm thôi, ít ai có thể hình dung được những cầu truyền hình trực tiếp, những mạng viễn thông toàn cầu giúp cho con người đối thoại và nhìn thấy nhau một cách trực tiếp. Mạng internet lại càng tuyệt diệu hơn nữa trong việc đưa lại thông tin trực tuyến, phong phú, nhiều chiều, nhanh nhạy cho con người. Với những tiến bộ của khoa học và công nghệ như hiện nay, đặc biệt là công nghệ tin học, thế giới như được thu nhỏ lại, thời gian như được thu hẹp lại. ấy vậy, bệnh quan liêu không những không thuyên giảm mà lại có xu hướng nặng thêm. Trong xã hội hiện đại, trình độ dân chủ ở Việt Nam đã được nâng lên, nhưng văn hoá dân chủ của một số cấp lãnh đạo, một số cán bộ lãnh đạo, quản lý vẫn không theo kịp.
Hai là: trong quan hệ với dân, phải sâu sát, tỷ mỉ, có phương pháp tốt. Liên quan đến yêu cầu trên đây, nên học ở Hồ Chí Minh khi Người cho rằng: 1. Phải giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ lợi ích và trách nhiệm của mình; 2. Sau đó, phải bàn bạc với dân để hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân; 3. Đặt ra kế hoạch thiết thực; 4. Tổ chức toàn dân thực hiện kế hoạch; 5. Trong quá trình thực hiện kế hoạch, phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích nhân dân giải quyết những việc khó khăn; 6. Khi thực hiện xong, phải cùng với dân xem xét lại công việc đã làm, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng. Như vậy, phải nói cho dân hiểu, phải hiểu dân nói và nói đi đôi với làm, làm những điều ích quốc, lợi dân với tinh thần “việc gì có lợi cho dân, dù nhỏ, ta cũng phải cố gắng làm; việc gì có hại cho dân, dù nhỏ, ta cũng phải cố tránh”.
Đây là một quy trình hợp lý, khoa học, nếu áp dụng một cách nghiêm túc trong thực tế công tác dân vận thì chắc chắn sẽ thành công. Rất tiếc, trong thực tế, bệnh hám thành tích diễn ra khá nặng, và đó là căn bệnh trầm kha, do đó để xẩy ra tình trạng ham chuộng hình thức; nhiều phong trào thi đua yêu nước được phát động nhưng xét về thực chất hiệu quả không có. Trong bình bầu, số đạt danh hiệu thi đua chiếm tỷ lệ cao nhưng phong trào cách mạng không phát triển tương ứng với các con số tỷ lệ đó.
Ba là: coi trọng hơn nữa công tác dân vận. Trước hết là tránh mắc khuyết điểm xem khinh công tác dân vận. Vì có tư tưởng coi khinh công tác dân vận cho nên, như Hồ Chí Minh đã chỉ ra, là “thường cử những cán bộ kém” phụ trách công tác dân vận. Hồ Chí Minh cũng lưu ý chống căn bệnh khoán trắng công tác dân vận cho một ban và cho một vài người. Hồ Chí Minh cho rằng: “Đó là sai lầm rất to, rất có hại”. Khi đã khoán trắng thì “vận được thì tốt, vận không được cũng mặc. Những cán bộ khác không trông nom, giúp đỡ, tự cho mình không có trách nhiệm dân vận”.
Tinh thần biện chứng của Hồ Chí Minh là ở chỗ: Hồ Chí Minh không sa vào chung chung, mà đề cập vấn đề dân trong thang bậc của ý thức giác ngộ chính trị. Hồ Chí Minh, trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (năm 1947), chia dân làm ba loại hoặc ba hạng: tiên tiến, vừa vừa, lạc hậu. Như vậy, nhiệm vụ của một Đảng cầm quyền, của những người hiếu với dân, là phải làm cho dân giác ngộ để đưa dân lên hàng “dân tiên tiến”. Ba hạng dân như vậy có chuyển hoá lẫn nhau trong một cá nhân, cũng có thể chuyển hoá trong các khối dân cư. Đúng là dân thật đấy, nhưng có lúc người dân đó vác búa vào rừng chặt hết rừng đầu nguồn thì đã trở thành lâm tặc, trở thành dân lạc hậu. Dân, nhưng ra biển cắt hết cáp quang thì không thể coi đó là dân “vừa vừa” được, càng không thể là dân “tiên tiến”... Chính vì vậy, trong công tác dân vận, tránh “theo đuôi quần chúng”, tránh mị dân. Một nền dân chủ chân chính, dân chủ xã hội chủ nghĩa, là ở chỗ lời nói đi đôi với việc làm, là thể hiện trên thực tế sự tận trung với nước, tận hiếu với dân, ở kết quả công tác, ở sự hoàn thành tốt trách nhiệm của một cán bộ, đảng viên, chứ không ở danh hiệu suông, không ở chức quyền cao hay thấp, không vì kiếm chác phiếu bầu, điều mà trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá IX về công tác xây dựng Đảng tại Đại hội X có ghi rõ “tình trạng “chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, “chạy bằng cấp” vẫn đang diễn ra (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tr. 263)./.