Thế
giới đang trải qua một thời kỳ có nhiều biến động, cạnh tranh chiến
lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, phân tuyến rõ hơn, chính trị
cường quyền, xung đột cục bộ và chạy đua vũ trang gia tăng, trong đó nổi
lên là xung đột Nga - Ukraina diễn biến phức tạp và kéo dài. Toàn cầu
hóa gặp nhiều khó khăn, kinh tế thế giới trì trệ với nhiều rủi ro tài
chính, tiền tệ và đứt gãy chuỗi cung ứng. Đại dịch COVID-19 tuy đã được
kiểm soát, nhưng để lại nhiều hệ lụy lâu dài, tác động nhiều chiều đến
an ninh, phát triển và quản trị ở phạm vi toàn cầu, khu vực, quốc gia,
doanh nghiệp và người dân. Bên cạnh đó, các thách thức an ninh phi
truyền thống, như biến đổi khí hậu, thiên tai, an ninh nước, an ninh
lương thực, an ninh năng lượng,... diễn ra ngày càng gay gắt. Tuy nhiên,
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với những thành tựu đột phá về
công nghệ tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ xu thế cấu trúc lại nền kinh tế,
chuyển đổi số, chuyển đổi năng lượng, tăng trưởng xanh,... mở ra nhiều
cơ hội mới hướng đến phát triển bền vững và bao trùm hơn.
Ở
trong nước, phát huy những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của
công cuộc đổi mới, Việt Nam tiếp tục đạt được nhiều thành tựu quan trọng
về phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và phòng,
chống đại dịch COVID-19. Tuy nhiên, bối cảnh thế giới và hậu quả nặng nề
của đại dịch COVID-19 cùng với thiên tai, biến đổi khí hậu,... đã tác
động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Trong
bối cảnh đó, ngành ngoại giao cùng các ngành, các cấp đã triển khai
đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng và
đạt được nhiều kết quả quan trọng, toàn diện. Trong đó, kết quả bao
trùm là củng cố vững chắc hơn môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ độc
lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, huy động được nhiều nguồn lực bên
ngoài phục vụ công tác phòng, chống đại dịch COVID-19, phục hồi và phát
triển kinh tế - xã hội, tiếp tục nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất
nước.
NHỮNG DẤU ẤN NGOẠI GIAO TRONG NỬA ĐẦU NHIỆM KỲ KHÓA XIII CỦA ĐẢNG
Ngay
sau Đại hội XIII của Đảng, ngành ngoại giao đã nghiên cứu, quán triệt
sâu rộng, tổ chức thực hiện và từng bước cụ thể hóa đường lối đối ngoại
Đại hội XIII thành các đề án, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp toàn diện,
lâu dài trên từng lĩnh vực cũng như với từng đối tác. Dưới sự chỉ đạo
của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, ngành ngoại giao phối hợp với các ban, bộ,
ngành đã tổ chức thành công Hội nghị Đối ngoại toàn quốc lần đầu tiên
(tháng 12/2021), tạo hiệu ứng lan tỏa, góp phần thống nhất nhận thức và
hành động giữa các cấp, các ngành và toàn hệ thống chính trị trong triển
khai đường lối đối ngoại trên cả ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại
giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Trong gần ba năm qua, ngành ngoại
giao cùng các ban, bộ, ngành và địa phương đã xây dựng, tham mưu cho Bộ
Chính trị, Ban Bí thư thông qua nhiều đề án đối ngoại quan trọng và ban
hành các nghị quyết, kết luận, chỉ thị về đối ngoại, như Nghị quyết số
34-NQ/TW, ngày 9/1/2023 của Bộ Chính trị về "Một số định hướng, chủ
trương lớn triển khai đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng”, các
kết luận của Bộ Chính trị về phát triển quan hệ với một số đối tác quan
trọng, hợp tác trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Tiểu vùng
sông Mê Công, công tác người Việt Nam ở nước ngoài, Chỉ thị số
15-CT/TW, ngày 10/8/2022 của Ban Bí thư về "Công tác ngoại giao kinh
tế phục vụ phát triển đất nước đến năm 2030”... Trên cơ sở đó, các cấp,
các ngành đã cụ thể hóa thành các đề án, kế hoạch và giải pháp, tạo nên
sự đồng bộ và thống nhất trong triển khai đường lối đối ngoại nhiệm kỳ
khóa XIII và những năm tiếp theo.
Các
hoạt động đối ngoại cấp cao trên bình diện song phương và đa phương
được đẩy mạnh một cách chủ động, sáng tạo, linh hoạt và hiệu quả, ngay
cả trong giai đoạn khó khăn của đại dịch COVID-19. Trong gần ba năm qua
(2021 - 2023), Việt Nam đã tổ chức gần 200 hoạt động đối ngoại cấp cao,
trong đó gần 40 chuyến thăm của lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước
tới các nước láng giềng, các nước đối
tác chiến lược, hầu hết các nước ASEAN, nhiều đối tác quan trọng và bạn
bè truyền thống; đồng thời, đón hơn 40 đoàn lãnh đạo cấp cao của các
nước và các tổ chức quốc tế lớn thăm Việt Nam. Nhờ đó, nền tảng quan hệ
và lòng tin chính trị với nhiều nước, nhất là các nước láng giềng, các
đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống, được củng cố vững chắc, trong
đó quan hệ với nhiều đối tác quan trọng được nâng lên tầm mức mới, tạo
động lực mạnh mẽ thúc đẩy các mối quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng,
đi vào chiều sâu và hiệu quả.
Bên
cạnh đó, Việt Nam đảm nhiệm và hoàn thành tốt nhiều trọng trách quốc tế
lớn, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, nổi bật là Ủy viên không
thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021, Phó Chủ
tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 77, thành viên Hội đồng Nhân quyền
Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025 và trúng cử nhiều vị trí quan trọng
trong các cơ chế, diễn đàn đa phương khác. Việt Nam cùng các thành viên
ASEAN nỗ lực xây dựng Cộng đồng ASEAN đoàn kết, vững mạnh, tự cường,
phát huy vai trò trung tâm ở khu vực; đồng thời, tiếp tục đóng góp có
trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề, thách thức chung của toàn cầu,
tích cực thực hiện cam kết tại Hội nghị các bên tham gia Công ước khung
của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP 26) và COP 27,
tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc ở châu Phi, cùng
các công tác về phòng, chống dịch bệnh, thiên tai, bảo đảm an ninh lương
thực,...
Trên
cơ sở kiên định độc lập, tự chủ và bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc,
tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật
pháp quốc tế, ngành ngoại giao đã tham mưu, xử lý đúng đắn, kịp thời
nhiều vấn đề đối ngoại phức tạp trong quan hệ với các nước và tại các
diễn đàn đa phương, nhất là các vấn đề liên quan đến biên giới lãnh thổ,
quan hệ với các đối tác quan trọng,... Phối hợp chặt chẽ với các ngành,
các cấp, ngành ngoại giao đã phát huy mạnh mẽ vai trò tiên phong của
đối ngoại trong việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ Tổ
quốc từ sớm, từ xa; vừa thúc đẩy đối thoại, hợp tác, tích cực đàm phán,
giải quyết các vấn đề biên giới với các nước láng giềng, vừa kiên quyết,
kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ, xử lý tốt vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo. Qua đó, ngành
ngoại giao đã có nhiều đóng góp quan trọng vào củng cố đường biên giới
hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, giữ vững an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội.
Bên
cạnh công tác tham mưu cụ thể hóa đường lối đối ngoại, công tác nghiên
cứu và dự báo, tham mưu chiến lược về đối ngoại được đẩy mạnh trong bối
cảnh quốc tế có nhiều biến động phức tạp. Ngành ngoại giao đã chủ động
phát hiện, kịp thời tham mưu, xử lý nhiều vấn đề, diễn biến mới trên thế
giới và khu vực tác động đến an ninh và phát triển của đất nước. Các
báo cáo tham mưu có chất lượng về cục diện thế giới, các xu hướng phát
triển mới, biến động kinh tế thế giới, điều chỉnh chiến lược, chính sách
của các nước,... đã góp phần quan trọng để Đảng và Nhà nước đưa ra
quyết sách đúng đắn, kịp thời trong xây dựng, triển khai và thực hiện
các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại.
Thực
hiện chủ trương ngoại giao kinh tế là nhiệm vụ cơ bản, trung tâm của
nền ngoại giao Việt Nam, “lấy người dân, địa phương và doanh nghiệp làm
trung tâm phục vụ”, ngành ngoại giao đã chủ động, tích cực đưa nội dung
hợp tác kinh tế vào trong các hoạt động đối ngoại, nhất là hoạt động đối
ngoại cấp cao, qua đó mở rộng và làm sâu sắc hơn hợp tác kinh tế với
nhiều đối tác; đồng thời, nhạy bén nắm bắt cơ hội các nước mở cửa trở
lại sau đại dịch COVID-19, tranh thủ hiệu quả các liên kết, thỏa thuận
kinh tế và các xu hướng phát triển mới trên thế giới, đóng góp thiết
thực vào duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, mở
rộng xuất khẩu, thu hút được nhiều nguồn lực bên ngoài phục vụ phát
triển bền vững đất nước. Từ đầu nhiệm kỳ khóa XIII đến nay, kim ngạch
xuất, nhập khẩu của nước ta lần đầu tiên vượt mốc 700 tỷ USD (năm 2022),
đưa Việt Nam vào nhóm 20 nước có quy mô thương mại lớn nhất thế giới;
thu hút hơn 22 tỷ USD nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), xếp
hạng thứ 32 trong 100 thương hiệu quốc gia giá trị nhất thế giới... Đặc
biệt, ngoại giao y tế, ngoại giao vắc-xin đã huy động được số lượng lớn
vắc-xin, thiết bị y tế từ bên ngoài, tiết kiệm ngân sách khoảng 900
triệu USD, đóng góp quan trọng và trực tiếp vào thực hiện thắng lợi
chiến lược vắc-xin, tạo cơ sở để nước ta chuyển sang thích ứng an toàn
với đại dịch COVID-19 và phục hồi phát triển kinh tế - xã hội.
Ngoại
giao văn hóa kết hợp chặt chẽ với ngoại giao kinh tế và thông tin đối
ngoại đã quảng bá sâu rộng hình ảnh đất nước, con người, văn hóa và
thành tựu phát triển của Việt Nam ra thế giới. Với nội dung, phương thức
ngày càng được đổi mới, sáng tạo, công tác thông tin đối ngoại đã
truyền tải kịp thời, đầy đủ và sâu rộng chủ trương, đường lối đối ngoại
của Đảng, thành tựu phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước đến bạn
bè quốc tế. Triển khai mạnh mẽ Chiến lược ngoại giao văn hóa đến năm
2030, Việt Nam tiếp tục phát huy vai trò trong Tổ chức Giáo dục, Khoa
học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) và các cơ chế, diễn đàn hợp
tác văn hóa; đã vận động thành công UNESCO công nhận chín di sản của
Việt Nam, góp phần tích cực vào việc bảo vệ, gìn giữ các giá trị văn hóa
tốt đẹp của dân tộc, đồng thời mở ra cơ hội huy động các nguồn lực mới
cho phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội ở các địa phương.
Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn đón Tổng Giám đốc UNESCO Audrey Azoulay thăm chính thức Việt Nam. (Nguồn: vietnamnet.vn)
Quán
triệt sâu sắc chủ trương của Đảng và Nhà nước về củng cố khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, công tác người Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục được
triển khai mạnh mẽ theo tinh thần Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày
26/3/2004 của Bộ Chính trị về "Công tác đối với người Việt Nam ở nước
ngoài” và Kết luận số 12-KL/TW, ngày 12/8/2021, của Bộ Chính trị về "Công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới”. Trong đó,
trọng tâm là tích cực chăm lo, hỗ trợ người Việt Nam ở nước ngoài gìn
giữ tiếng Việt, nâng cao địa vị pháp lý, ổn định, hội nhập và phát
triển, nhất là ở những địa bàn mà bà con còn gặp nhiều khó khăn. Đồng
thời, tiếp tục khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam ở
nước ngoài đóng góp tích cực, hiệu quả vào phát triển quê hương, đất
nước và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh đó, công tác bảo hộ công dân Việt Nam ở
nước ngoài cũng đạt nhiều kết quả quan trọng; trong đó, kịp thời sơ tán
an toàn hơn 6.000 công dân, người Việt Nam tại Ukraina, đưa về nước
trên 2.000 công dân bị cưỡng bức lao động tại Campuchia và
Philippine, bảo hộ và hỗ trợ đưa về nước trên 1.800 ngư dân, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân Việt Nam ở nước
ngoài.
Một
cách khái quát, trải qua nửa đầu nhiệm kỳ khóa XIII của Đảng, như đồng
chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định, hoạt động đối ngoại và
hội nhập quốc tế tiếp tục được mở rộng, triển khai đồng bộ, toàn diện,
linh hoạt, hiệu quả và đạt nhiều kết quả quan trọng, được xem là một
điểm sáng trong những năm vừa qua(1). Ngoại giao Việt Nam đã
phát huy mạnh mẽ vai trò tiên phong của đối ngoại, củng cố vững chắc cục
diện đối ngoại, tạo thuận lợi cho việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế, uy tín
quốc tế của đất nước. Thành tựu này có ý nghĩa rất quan trọng về nhiều
mặt trong bối cảnh nước ta đang nỗ lực triển khai thực hiện Nghị quyết
Đại hội XIII của Đảng trong môi trường quốc tế có nhiều biến động lớn,
chưa từng có tiền lệ như hiện nay.
LÀM PHONG PHÚ VÀ SÂU SẮC HƠN BÀI HỌC VỀ ĐỐI NGOẠI VÀ NGOẠI GIAO
Có
được những thành tựu đối ngoại và ngoại giao từ đầu nhiệm kỳ khóa XIII
đến nay là nhờ thế và lực mới của đất nước trong sự nghiệp đổi mới;
đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước; dưới sự lãnh đạo, chỉ
đạo sáng suốt của Trung ương Đảng, trực tiếp và thường xuyên là Bộ
Chính trị, Ban Bí thư và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; sự đồng
thuận, phối hợp và hiệp đồng chặt chẽ giữa các trụ cột, binh chủng đối
ngoại, các ngành, các cấp, trong đó có sự nỗ lực bền bỉ và đóng góp trực
tiếp của ngành ngoại giao; sự đồng tình và ủng hộ của toàn dân cùng cả
hệ thống chính trị; sự hợp tác của các đối tác, bạn bè quốc tế,...
Hoạt
động đối ngoại và ngoại giao trong gần ba năm qua đã làm phong phú và
sâu sắc hơn các bài học quý báu về đối ngoại trong công cuộc đổi mới.
Một là,
bám sát Nghị quyết và đường lối đối ngoại của Đại hội XIII, luôn kiên
định, bản lĩnh trước những tình huống, diễn biến phức tạp của tình hình
quốc tế, chủ động nắm bắt, dự báo sát và đúng tình hình, “biết mình,
biết người”, “biết thời, biết thế”, để linh hoạt “biết cương, biết nhu”,
“biết tiến, biết thoái”, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc
trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật
pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.
Hai là,
phát huy tối đa thế và lực mới của đất nước, bản sắc “ngoại giao cây
tre Việt Nam” dựa trên nền tảng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và
truyền thống, bản sắc ngoại giao, văn hóa của dân tộc. Trước những biến
động phức tạp của tình hình quốc tế, “cây tre Việt Nam” vẫn giữ vững thế
ổn định và vươn lên nhờ “gốc vững” là kiên định độc lập, tự chủ, đa
phương hóa, đa dạng hóa, đề cao các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương
Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, vì lợi ích quốc gia - dân tộc; đồng
thời, sáng tạo, uyển chuyển, cơ động trong sách lược, ứng xử với phương
châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Ba là,
phối hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà
nước và đối ngoại nhân dân; giữa đối ngoại, ngoại giao và quốc phòng, an
ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội; giữa đối ngoại và đối nội; giữa ngoại
giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa và các binh chủng
đối ngoại; giữa song phương và đa phương; qua đó, đã phát huy được sức
mạnh tổng hợp của nền ngoại giao Việt Nam.
Bốn là,
không ngừng nâng cao năng lực nghiên cứu, dự báo, tham mưu đối ngoại;
biết kiến tạo, phát hiện và quyết tâm cao tranh thủ thời cơ và cơ hội,
“biến nguy thành cơ”, mạnh dạn tìm kiếm và thực hiện cách làm mới, hướng
đi mới, mở rộng sang các lĩnh vực mới trên cơ sở kiên định nguyên tắc,
mục tiêu chiến lược.
Năm là,
đặc biệt coi trọng xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ trong ngành ngoại giao; triển khai
đồng bộ các nhiệm vụ đối ngoại và nhiệm vụ xây dựng nền ngoại giao toàn
diện, hiện đại.
Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng thay mặt cán bộ, chiến sĩ Đội Công binh số 1 Việt Nam tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại Abyei nhận bò từ chính quyền và nhân dân địa phương tặng. (Nguồn: qdnd.vn)
QUYẾT TÂM THỰC HIỆN THẮNG LỢI ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI THEO TINH THẦN ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG
Tình
hình quốc tế trong thời gian tới tiếp tục biến động phức tạp, tác động
nhiều chiều đến an ninh và phát triển của nước ta, cơ hội đan xen với
thách thức. Ở trong nước, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tiếp tục
nỗ lực với quyết tâm cao thực hiện các mục tiêu phát triển đến năm 2025
và năm 2030 theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Trước
những yêu cầu thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển mới của đất
nước, ngành ngoại giao tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy và hành động,
lấy phụng sự Đảng, Tổ quốc và phục vụ nhân dân làm động lực phát triển,
thực hiện đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả các nhiệm vụ đối ngoại và xây
dựng, phát triển ngành ngoại giao. Trọng tâm là, tiếp tục cụ thể hóa
đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng thông qua các đề án, chương
trình, kế hoạch, biện pháp triển khai cụ thể, thực hiện tốt công tác
nghiên cứu, dự báo chiến lược, đánh giá đúng tình hình, xử lý kịp thời,
đúng đắn các vấn đề đối ngoại nhằm tiếp tục củng cố vững chắc hơn cục
diện đối ngoại, tạo thuận lợi cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển
của đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa trong mối tương
quan chặt chẽ với nhiệm vụ giữ vững môi trường hòa bình, ổn định. Ngành
ngoại giao phối hợp chặt chẽ với đối ngoại đảng, đối ngoại nhân dân, các
binh chủng ngoại giao, quốc phòng, an ninh, kinh tế - xã hội trong việc
phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò tiên phong của đối ngoại, đưa đối
ngoại thực sự trở thành một động lực quan trọng cho phát triển nhanh và
bền vững đất nước.
Để
thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ đối ngoại, một trong những điều cốt
yếu là xây dựng nền ngoại giao Việt Nam vững mạnh, toàn diện, hiện đại.
Bên cạnh việc triển khai các biện pháp tổng thể, đồng bộ về tổ chức bộ
máy, cán bộ, cơ sở vật chất, phương thức vận hành,... ngành ngoại giao
tiếp tục đẩy mạnh thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, kết luận của
Trung ương về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; kiên quyết ngăn chặn,
đẩy lùi mọi biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Kiện toàn, nâng cao năng
lực tổ chức bộ máy hướng đến tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đi đôi với
đổi mới tư duy quản trị, phương thức, lề lối làm việc theo hướng chuyên
nghiệp, hiện đại. Vấn đề then chốt là tiếp tục nâng cao hơn nữa chất
lượng đội ngũ cán bộ ngoại giao toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo
đức, bản lĩnh và trí tuệ, có tư duy đổi mới, sáng tạo, phong cách chuyên
nghiệp, từng bước đạt tầm khu vực và thế giới. Bên cạnh đó, cơ chế,
chính sách, pháp luật về đối ngoại và ngoại giao cần tiếp tục được đổi
mới, hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu triển khai các nhiệm vụ đối ngoại và
phát triển ngoại giao Việt Nam trong thời gian tới.
Bám
sát đường lối đối ngoại tại Đại hội XIII của Đảng, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, bản sắc “ngoại
giao cây tre Việt Nam” và truyền thống ngoại giao của dân tộc, phát huy
thành quả đã đạt được trong công cuộc đổi mới cũng như từ đầu nhiệm kỳ
khóa XIII đến nay, ngoại giao Việt Nam đã đoàn kết vượt qua mọi thử
thách, khó khăn, tiếp tục đóng góp xứng đáng vào thực hiện thắng lợi
Nghị quyết và đường lối đối ngoại theo tinh thần Đại hội XIII của
Đảng./.
BÙI THANH SƠN
Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
_____________________
(1) Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Chính phủ với các địa phương, Báo Điện tử Chính phủ, ngày 3/1/2023.
(Nguồn: TC Cộng sản)