Nghị quyết số 10-NQ/TW
(sau đây gọi là Nghị quyết) đã mở đường cho việc đưa ra những cơ chế,
chính sách mới, phù hợp hơn và đột phá hơn nhằm phát triển kinh tế tư
nhân trở thành một khu vực kinh tế năng động, sáng tạo với năng lực cạnh
tranh và tác động lan tỏa cao tới các khu vực kinh tế khác, qua đó tới
toàn bộ nền kinh tế.
Ngay sau khi
được ban hành, Nghị quyết đã nhanh chóng được tổ chức học tập, quán
triệt, phổ biến, tuyên truyền và thể chế hóa, cụ thể hóa với sự vào cuộc
của cả hệ thống chính trị từ Trung ương tới địa phương và doanh nghiệp.
Ðiểm nổi bật là việc phổ biến và quán triệt Nghị quyết đã được thực
hiện với nhiều đổi mới, kể cả về hình thức (phổ biến, quán triệt trực
tuyến kết hợp với các hình thức truyền thống, đảm bảo sự phù hợp với
điều kiện cụ thể của từng địa phương, cơ quan và đơn vị), về nội dung
(được thực hiện một cách hệ thống trong mối quan hệ hữu cơ với Nghị
quyết về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và Nghị quyết về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả
doanh nghiệp nhà nước; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn…)
và về báo cáo viên (các đồng chí lãnh đạo, các chuyên gia thực sự có
năng lực, có kinh nghiệm, đã tham gia soạn thảo Nghị quyết, trực tiếp
phổ biến và quán triệt).
Sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị đã khiến cho Nghị quyết bước
đầu đi vào cuộc sống với việc nhiều Dự án luật và Nghị quyết quan trọng
có liên quan đến phát triển khu vực kinh tế tư nhân đã được Quốc hội
thông qua; các Chương trình/kế hoạch hành động về thực hiện Nghị quyết
đã được Chính phủ; hầu hết các bộ, ban, ngành ở Trung ương; các tỉnh ủy,
thành ủy trực thuộc Trung ương, ban hành và tổ chức triển khai với các
nhiệm vụ và lộ trình thực hiện cụ thể.
Cải cách hành chính; cải thiện
môi trường đầu tư và kinh doanh theo thông lệ quốc tế (ASEAN 4); nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia được đẩy mạnh và thực hiện một
cách quyết liệt từ Trung ương đến địa phương dẫn đến những cải thiện
đáng kể trong môi trường đầu tư, kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia với sự ghi nhận của cả cộng đồng quốc tế và cộng đồng
doanh nghiệp; tinh thần khởi nghiệp và phát triển hệ sinh thái đổi mới
sáng tạo đang dần trở thành một phong trào rộng khắp; nhiều doanh nghiệp
tư nhân đang điều chỉnh chiến lược đầu tư và kinh doanh theo hướng bền
vững hơn; doanh nhân đang ngày càng được xã hội coi trọng và tôn vinh…
Sau hai năm thực hiện Nghị quyết, khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam
đã có bước phát triển mới cả về số lượng, chất lượng và có những đóng
góp ngày càng tăng đối với sự phát triển của nền kinh tế và xã hội.
Số lượng doanh nghiệp gia tăng mạnh từ 655.000 năm 2017 lên 730.000
vào năm 2018 và đạt 743.409 vào cuối quý I năm 2019. Trong đó, phong
trào khởi nghiệp nở rộ, với khoảng 3.000 doanh nghiệp khởi nghiệp sáng
tạo vào năm 2018. Tổng vốn đăng ký mới tăng từ 1.295.911 tỷ đồng vào năm
2017 lên 1.478.100 tỷ đồng vào năm 2018. Mỗi năm (2017 và 2018), có hơn
1,1 triệu việc làm mới được tạo ra. Riêng quý I năm 2019, 375.500 tỷ
đồng vốn đầu tư mới và gần 320.000 việc làm mới đã được bổ sung vào nền
kinh tế. Quy mô của nhiều doanh nghiệp ngày càng mở rộng, một số doanh
nghiệp đạt tổng tài sản đến hàng trăm nghìn tỷ đồng và sử dụng hàng chục
nghìn lao động.
Khu vực kinh tế tư nhân đang chiếm khoảng 40% GDP cả nước; tốc độ
tăng trưởng của doanh nghiệp tư nhân (không tính loại hình cá thể, hộ
gia đình) đạt gần 12% vào năm 2017, cao hơn mức chung của nền kinh tế
cùng năm (6,81%); khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế tập thể
chiếm 26% giá trị xuất khẩu, 34% giá trị nhập khẩu, đóng góp 32,26% vào
ngân sách nhà nước năm 2017 và 38,20% năm 2018, vượt đáng kể so với mức
29,43% của 2016, là năm chưa ban hành Nghị quyết.
Ðáng chú ý là nhiều doanh nghiệp tư nhân đang điều chỉnh chiến lược
đầu tư và kinh doanh theo hướng bền vững hơn, gắn nhiều hơn với công
nghệ và đổi mới sáng tạo thông qua việc thiết lập trường đại học,
viện/trung tâm nghiên cứu và triển khai cũng như hoàn thành được những
công trình lớn, phức tạp trong một thời gian tương đối ngắn.
Mặc dù đã có thêm bước phát triển mới cả về số lượng và chất lượng
nhưng khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam vẫn chưa phát huy hết được tiềm
năng của mình để thực sự đóng vai trò là một động lực quan trọng của
nền kinh tế.
Số lượng doanh nghiệp tư nhân thành lập nhiều nhưng khả năng trụ vững
và phát triển hiệu quả còn thấp: số doanh nghiệp ngừng hoạt động đã gia
tăng từ 39.000 của năm 2017 lên 63.000 doanh nghiệp vào năm 2018. Do
vậy, mục tiêu đến năm 2020 nước ta có một triệu doanh nghiệp khó hoàn
thành nếu không có giải pháp đột phá về cải thiện môi trường kinh doanh.
Sự gia tăng số lượng của doanh nghiệp tư nhân chưa gắn với sự đột phá
về chất lượng phát triển. Trong vài năm gần đây, nhóm doanh nghiệp tư
nhân có giá trị sản lượng chiếm khoảng 8% GDP cả nước, trong khi nhóm
kinh tế hộ gia đình, cá thể chiếm khoảng 30%. Trong đó, nhóm hộ gia
đình, cá thể có tốc độ tăng trưởng thấp hơn mức trung bình cả nước.
Phần lớn (97%) doanh nghiệp tư nhân là các doanh nghiệp nhỏ và vừa,
với khoảng 70% số doanh nghiệp đăng ký có quy mô dưới 10 lao động và vốn
đăng ký dưới năm tỷ đồng. Do vậy, dải phân bổ về quy mô của các doanh
nghiệp khu vực kinh tế tư nhân đang bị phân cực, với phần đông có quy mô
nhỏ, một số ít với quy mô lớn. Sự thiếu các doanh nghiệp có quy mô
trung bình gây khó cho sự chuyên môn hóa và đầu tư vào công nghệ, vì
vậy, kìm giữ năng suất lao động. Nhóm số ít các doanh nghiệp lớn vẫn
chưa tạo ra được nhiều giá trị lan tỏa từ vị trí dẫn đầu, đặc biệt trong
lĩnh vực đổi mới sáng tạo và tăng trưởng. Hơn nữa, sự mở rộng quá nhanh
của một số doanh nghiệp lớn cũng tiềm ẩn rủi ro cho nền kinh tế, vì để
nền tảng doanh nghiệp vững mạnh thì cần phải có đủ thời gian để tích lũy
vốn và công nghệ.
Năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam trước vận hội của cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 không đạt được thứ hạng cao, xếp thứ 77/140 nước,
tức ở nhóm nửa dưới. Giá trị thương hiệu quốc gia của Việt Nam vẫn còn
đứng sau so với một số nước trong khu vực Ðông - Nam Á như Xin-ga-po,
Thái-lan, Ma-lai-xi-a.
Những nguyên nhân dẫn đến tình trạng khu vực kinh tế tư nhân ở Việt
Nam vẫn chưa phát huy hết được tiềm năng của mình để thực sự đóng vai
trò là một động lực quan trọng của nền kinh tế là do khu vực này vẫn
đang phải đối mặt với nhiều rào cản cả về nhận thức lẫn khung khổ pháp
luật, cơ chế, chính sách và thực thi cơ chế, chính sách cũng như môi
trường kinh doanh mặc dù đã được cải thiện nhưng vẫn còn chậm, nhiều bất
cập; chưa đồng đều giữa các bộ, ngành, địa phương, chưa thực chất trên
một số lĩnh vực cũng như năng lực nội tại chưa cao của chính khu vực
này.
Sau hai năm thực hiện Nghị quyết, mặc dù vẫn còn có một số hạn chế và
chưa thực sự tương xứng với tiềm năng nhưng khu vực kinh tế tư nhân ở
Việt Nam đã có bước phát triển mới cả về số lượng và chất lượng; đóng
góp ngày càng tăng thêm cho phát triển của nền kinh tế và xã hội theo
hướng nhanh và bền vững. Những kết quả đạt được đã ngày càng khẳng định
tính đúng đắn và sự phù hợp với xu hướng phát triển chung của Nghị quyết
với tư cách là sự kế thừa và phát triển đường lối lớn về phát triển
kinh tế tư nhân của Ðảng ta kể từ khi Ðổi mới đến nay.
Ðể khu vực kinh tế tư nhân thực sự là một động lực quan trọng của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần kiên trì thực hiện
và thực hiện có hiệu quả năm nhóm giải pháp đã được đặt ra trong Nghị
quyết. Trong đó, việc đảm bảo sự thống nhất nhận thức về phát triển kinh
tế tư nhân, nhất là về mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sẽ giúp củng
cố niềm tin của thị trường và xã hội vào triển vọng phát triển của khu
vực kinh tế này. Ðó là mối quan hệ Ðảng lãnh đạo; Nhà nước quản lý, điều
tiết, phân bổ nguồn lực nhà nước dựa trên nguyên tắc của thị trường,
đảm bảo sự công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình; thị trường là
cơ chế chủ yếu phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế; người dân làm
chủ với nguyên tắc dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và tất cả là của dân,
do dân và vì dân. Ðiều này sẽ giúp cho nguồn lực được phân bổ hiệu quả,
tránh được tình trạng "thị trường thân hữu, lợi ích nhóm" và đảm bảo
được tính xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường.
Ðồng thời, việc cải cách hành chính; cải thiện môi trường đầu tư và
kinh doanh cần phải được thực hiện một cách quyết liệt hơn, đồng bộ hơn
và thực chất hơn, gắn với trách nhiệm người đứng đầu các bộ, ngành và
địa phương nhằm giảm chi phí giao dịch và tạo dựng một "sân chơi" thực
sự công bằng, bình đẳng, nhất là trong tiếp cận thị trường và tiếp cận
các nguồn lực, cho đầu tư và kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân.
Thêm vào đó, bên cạnh những nỗ lực của chính bản thân khu vực kinh tế
tư nhân, Nhà nước cũng cần phải có vai trò chủ động và tích cực hơn,
với tư cách là "bà đỡ" để định hướng và dẫn dắt khu vực kinh tế tư nhân
bắt nhịp với xu hướng phát triển mới, đặc biệt là chuyển đổi số thông
qua việc tạo ra sự đột phá trong thể chế phát triển, nhất là thể chế hỗ
trợ đổi mới sáng tạo; đẩy mạnh sự phát triển của hệ thống đổi mới và
sáng tạo quốc gia; hỗ trợ nghiên cứu và triển khai, chuyển giao công
nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; hỗ trợ tài chính hay đặt
hàng nghiên cứu và triển khai đối với những doanh nghiệp có tác động
đột phá và lan tỏa cao, đồng thời đáp ứng được các tiêu chuẩn và thông
lệ quốc tế tốt nhất với nguyên tắc công khai, minh bạch và cạnh tranh.
Nhìn về tương lai, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra
mạnh mẽ; hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; chuyển đổi căn bản sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; biến đổi khí hậu
diễn biến phức tạp; nền kinh tế đang chuyển sang một giai đoạn phát
triển mới, khác về chất và dựa nhiều hơn vào nâng cao năng suất và đổi
mới sáng tạo; những yêu cầu cấp thiết về đảm bảo sự độc lập và tự chủ
của nền kinh tế… đang đặt ra nhiều cơ hội và thách thức đan xen đối với
sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân nói riêng và nền kinh tế Việt
Nam nói chung.
Ðể tận dụng được cơ hội và vượt qua được thách thức đó khu vực kinh
tế tư nhân phải là một khu vực kinh tế năng động, sáng tạo với năng lực
cạnh tranh và tác động lan tỏa cao tới các khu vực kinh tế khác và qua
đó tới toàn bộ nền kinh tế.
Ðó phải là một khu vực kinh tế với sự kết
hợp hài hòa và hữu cơ giữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa với các doanh
nghiệp/tập đoàn tư nhân lớn, có thương hiệu và năng lực cạnh tranh quốc
tế; dẫn đầu trong đổi mới sáng tạo và tăng trưởng; có tác động lôi kéo,
thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ khu vực kinh tế tư nhân.
Khát vọng về
một đất nước Việt Nam hùng cường, phát triển nhanh và bền vững với "dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" gắn liền với sự phát
triển và lớn mạnh của tất cả các khu vực kinh tế, trong đó khu vực kinh
tế tư nhân có vai trò là một động lực quan trọng./.
Nguyễn Văn Bình
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Ðảng
Trưởng Ban Kinh tế Trung ương
(Nguồn: nhandan.com.vn)