Chủ Nhật, 8/9/2024
Nghiệp vụ công tác tuyên giáo
Thứ Bảy, 23/12/2023 16:10'(GMT+7)

Đổi mới trong đào tạo báo chí – truyền thông đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số hiện nay

Sinh viên Khoa Báo chí làm quen với khâu xuất bản tại phòng thực hành xuất bản báo in

Sinh viên Khoa Báo chí làm quen với khâu xuất bản tại phòng thực hành xuất bản báo in

Khái niệm chuyển đổi số (Digital transformation) đã xuất hiện từ lâu trên thế giới. Trong quá trình phát triển của kỷ nguyên số, chuyển đổi số là điều tất yếu mà các quốc gia trên thế giới đang hướng tới. Ở Việt Nam khái niệm này đã trở nên quen thuộc thời gian gần đây và đang ngày càng có những tác động lớn đến mọi lĩnh vực của đời sống ở nhiều cấp độ và biểu hiện khác nhau, như: Chính phủ số (dịch vụ công trực tuyến, dữ liệu mở...), kinh tế số (tài chính số, thương mại điện tử...), xã hội số (điện thoại thông minh, truyền thông số, trí tụê nhân tạo...), chuyển đổi số trong nhiều ngành trọng điểm: nông nghiệp, du lịch, điện lực, giao thông...

Trong khi các thuật ngữ như Dữ liệu lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây (cloud) đã trở nên rất quen thuộc trong việc thay đổi phương thức điều hành, lãnh đạo, quy trình làm việc của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp và cơ quan, thì thuật ngữ “chuyển đổi số” dù rất phổ biến nhưng được sử dụng chưa thực sự đúng và đủ về bản chất. Ở Việt Nam chuyển đổi số phần nhiều được hiểu là số hóa và ứng dụng số hóa. Chuyển đổi số thực chất là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân và tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất trên môi trường số với các công nghệ số. Sự thay đổi này dẫn đến những chuyển đổi ở cấp độ hệ thống và sự xuất hiện của những mô hình, cấu trúc mới trong mỗi lĩnh vực mà nó tác động, từ đó kéo theo những thay đổi cách thức vận hành và hành vi trên quy mô lớn nếu các tổ chức, cá nhân muốn thích nghi.

Trong thời đại Internet đã lên ngôi mạnh mẽ cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, thì sự tác động trực tiếp của chuyển đổi số đến tất cả các lĩnh vực, ngành, nghề của đời sống xã hội là điều đã không thể tránh khỏi và thậm chí không thể trì hoãn, nếu không muốn bị tụt hậu. Giáo dục - đào tạo cũng không thể nằm ngoài vòng xoáy của chuyển đổi số.

Chuyển đổi số trong giáo dục - đào tạo là việc dựa vào mục đích và cơ cấu giáo dục để áp dụng công nghệ chuyển đổi số. Với mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực báo chí - truyền thông, những người hơn ai hết phải hiểu được sức mạnh của khoa học công nghệ số và làm chủ được công nghệ số để nắm bắt, xử lý, định hướng thông tin một cách nhanh nhất, nhạy bén nhất, chính xác nhất, đúng định hướng nhất, việc nhanh chóng chuyển đổi mô hình đào tạo báo chí - truyền thông truyền thống sang đào tạo công nghệ số một cách hệ thống là yêu cầu có tính cấp thiết. Hiện nay, chuyển đổi số trong giáo dục nói chung và giáo dục - đào tạo nghề nghiệp nói riêng được ứng dụng với 3 cấp độ: (1) Ứng dụng công nghệ số tại các lớp học; (2) Ứng dụng chuyển đổi số công nghệ trong công tác quản lý của cơ sở đào tạo; (3) Ứng dụng công nghệ vào phương pháp dạy và học.

Các cơ sở đào tạo, nhất là bậc đại học hiện nay đều đã ứng dụng công nghệ số ở cả 3 cấp độ kể trên, tuy nhiên, để tiến tới chuyển đổi số toàn diện trong đào tạo, thì các cơ sở đào tạo cần đồng thời chuẩn bị các nguồn lực để tham gia vào hệ thống đào tạo mở bằng công nghệ số. Hệ thống đào tạo mở này thực chất không xa lạ với quan niệm học tập suốt đời trong giáo dục truyền thống của Việt Nam nhưng vận hành trên nền tảng số với phương thức hiện đại. Do đó, để nâng cao chất lượng đào tạo báo chí - truyền thông trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay, trước hết cần có sự nhất quán về quan niệm xây dựng một cơ sở đào tạo nghề nghiệp mở - hiện đại; đồng thời cần xác định mô hình khung năng lực số đối với giảng viên và năng lực số cho người học đáp ứng yêu cầu đặt ra của thực tiễn chuyển đổi số hiện nay.

Thứ nhất, cần nhận thức đầy đủ về việc chuẩn bị nguồn lực để xây dựng mô hình đào tạo báo chí - truyền thông theo hệ thống giáo dục mở.

Việt Nam ý thức được xu hướng mở trong giáo dục từ đầu những năm 2010. Nghị quyết 29-NQ/TW năm 2013 về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa” đã yêu cầu cần: “Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở”. Luật Giáo dục năm 2019 cũng nhấn mạnh: “Phát triển hệ thống giáo dục mở, xây dựng xã hội học tập nhằm tạo cơ hội để mọi người được tiếp cận giáo dục, được học tập ở mọi trình độ, mọi hình thức, học tập suốt đời”. Quan niệm học tập suốt đời luôn nằm trong khuôn khổ của các lĩnh vực chính sách giáo dục và thị trường lao động Việt Nam từ trong lịch sử, nhưng trong thời đại ngày nay, biên giới của học tập suốt đời sẽ bao phủ hầu hết tất cả các lĩnh vực: “tiềm năng của học tập suốt đời không chỉ để biến đổi lĩnh vực giáo dục, mà còn tạo ra tương lai bền vững, lành mạnh và hòa nhập hơn” cho tất cả mọi người và tương lai của giáo dục. Khái niệm học tập suốt đời đầy đủ giờ đây không chỉ đề cập đến phạm vi thời gian: việc học tập từ lúc sinh ra cho tới lúc chết đi (bất kỳ lúc nào), mà còn cả phạm vi không gian: học tập tồn tại bên trong và bên ngoài hệ thống giáo dục (bất kỳ ở đâu), được mọi người ở mọi lứa tuổi triển khai (bất kỳ ai, bất kỳ lứa tuổi nào), thông qua một dải rộng lớn các phương thức, bao gồm mặt đối mặt, từ xa, trực tuyến (bất kỳ cách gì), và liên quan tới tất cả các lĩnh vực kiến thức (bất kỳ điều gì).

Việc học tập suốt đời như vậy sẽ kéo theo việc phát triển năng lực của người học, cá nhân hóa việc học tập, việc thừa nhận các kết quả học tập giành được trong các bối cảnh khác nhau và thúc đẩy lộ trình học tập mở rất linh hoạt. Điều này, tới lượt nó, sẽ dẫn tới việc xây dựng chính sách học tập suốt đời dịch chuyển từ cung sang cầu. Trong tương lai của giáo dục đến năm 2050, khi mà, từ phía cầu, người học có thể yêu cầu tham gia một khóa học với đầy đủ đặc tính “bất kỳ” mà người học mong muốn, liệu từ phía cung, các cơ sở giáo dục và các nhà cung cấp giáo dục khác sẽ phải thay đổi để đáp ứng yêu cầu đó như thế nào? Với xu thế đó, tương lai của một trường đại học ảo tồn tại trên Internet trực tuyến, không có một mét vuông đất, được vận hành hoàn toàn bằng phần mềm máy tính không còn quá xa vời.

Hiện nay, với lợi thế của công nghệ số, rất nhiều cơ sở đào tạo báo chí - truyền thông không chính quy hay các cơ sở đào tạo “mở” đã ra đời bên cạnh các Khoa, Viện, Học viện đào tạo chính quy trong lĩnh vực này. Do đó, bên cạnh việc các cơ sở đào tạo công phát huy hơn nữa thế mạnh của đào tạo truyền thống cũng như tiếp tục ứng dụng mạnh mẽ công nghệ hiện đại trong giảng dạy, quản lý, vận hành... thì cần tiếp cận và dần xây dựng các mô hình đào tạo mới để đáp ứng xu thế mới trong giáo dục đào tạo hiện đại. Đây không chỉ là câu chuyện của nâng cao chất lượng, phát huy lợi thế của chuyển đổi số hay hòa nhập vào xu hướng giáo dục hiện đại mà có thể nói là câu chuyện mang tính tồn tại hay không tồn tại của các cơ sở đào tạo nghề nghiệp trong tương lai không xa.

Về quan niệm giáo dục mở: Giáo dục mở là một thuật ngữ mô tả mô hình/hệ thống giáo dục được thiết kế để mở rộng sự tiếp cận việc học tập so với giáo dục chính quy (truyền thống, thông thường) bằng nhiều biện pháp, trong đó đặc biệt nhấn mạnh sự phát triển nguồn học liệu giáo dục mở (trên nền tảng công nghệ hiện đại) trong mọi môi trường học tập với nhiều hình thức khác nhau. Giáo dục mở xoay quanh các tài nguyên, công cụ và thực hành là tự do, không có các rào cản về pháp lý, tài chính và kỹ thuật và có thể hoàn toàn được sử dụng, được chia sẻ và được tùy biến thích nghi trong môi trường số. Nền tảng của giáo dục mở là tài nguyên giáo dục mở - OER (Open Educational Resources) - các tài nguyên dạy, học và nghiên cứu không có các chi phí và không có các rào cản truy cập, mang sự cho phép về pháp lý để sử dụng mở.

Hệ thống giáo dục mở là hệ thống giáo dục linh hoạt, liên thông giữa các yếu tố (nội dung, phương pháp, phương thức, thời gian, không gian, chủ thể giáo dục...) của hệ thống và liên thông với môi trường bên ngoài hệ thống, bảo đảm tính sáng tạo cho việc xây dựng, tổ chức các nội dung, hình thức giáo dục; Tạo cơ hội tiếp cận giáo dục cho mọi người; tận dụng các nguồn lực cho giáo dục và bảo đảm tính hiệu quả, phát triển bền vững của hệ thống. Nói cách khác, hệ thống giáo dục mở là hệ thống giáo dục tạo ra cơ hội phát triển chương trình giáo dục, tạo cơ hội học tập phù hợp cho mọi đối tượng có nhu cầu, không phân biệt lứa tuổi, trình độ học vấn và nghề nghiệp, địa vị xã hội, giới tính trong mọi thời gian khác nhau và không gian khác nhau.

Trong điều kiện các cơ sở đào tạo nghề nghiệp ở Việt Nam hiện nay, vấn đề tài chính còn nhiều ràng buộc để có thể chuyển đổi hoàn toàn hệ thống giáo dục đào tạo mở, do đó, để có thể phát triển chương trình đào tạo báo chí - truyền thông theo hướng kể trên cần kết hợp cả truyền thống và giáo dục mở. Các khóa học mở miễn phí hoặc dưới hình thức học bổng toàn phần hay từng phần sẽ là phù hợp hơn để từng bước chuyển đổi môi trường giáo dục đào tạo mở trong bối cảnh hiện nay để không chỉ chuyển đổi số trong học giảng dạy, trong học liệu, trong ứng dụng công nghệ mà còn là một hình thức quảng bá và mở rộng thương hiệu của cơ sở đào tạo ra phạm vi “phẳng” không giới hạn thời gian, khoảng cách.

Những hoạt động ứng dụng chuyển đổi số đã được áp dụng và phát huy hiệu quả có thể kể đến như: Công nghệ số không gian giảng dạy, học tập; các thiết bị thông minh được lắp đặt tại các lớp học (đầu ghi hình, bàn học thông minh, bảng điện tử thông minh, thiết bị họp trực tuyến...) đã được đưa vào sử dụng; nhiều cơ sở giáo dục cũng tạo điều kiện để sinh viên tham gia trải nghiệm, tiếp cận công nghệ cao, thực hành nghề nghiệp tại các phòng thực hành công nghệ cao (phòng thu, trường quay, sân khấu hóa...); thậm chí tham gia các chuyến tham quan thực tế ảo; những ứng dụng chuyển đổi số giáo dục trong phương pháp dạy học được kết hợp trong chương trình học truyền thống (Khóa học trực tuyến E – learning, phương pháp học tập thông qua các dự án, phương pháp học bằng ứng dụng thực tế ảo, các lớp học về Lập trình, STEM, STEAM, Tiếng anh công nghệ...). Các phần mềm quản lý đào tạo đã được nhiều đơn vị công lập áp dụng. Những cơ sở giáo dục tư nhân có sử dụng các phần mềm để quản lý để dần dần số hóa bằng những phần mềm quản lý tài sản, phần mềm quản lý trường học chuyên biệt... Ứng dụng công nghệ trong quản lý, giúp người học dễ dàng trong tra cứu thông tin khi đến thư viện, hay giáo viên, quản lý quản lý bảng điểm học sinh, thời khóa biểu, hay các thông tin khác. Thông qua ứng dụng chuyển đổi số người học đã dễ dàng tìm kiếm tài liệu học tập và giáo viên dễ dàng quản lý thành tích, hồ sơ cá nhân và nhiều thông tin liên quan đến phương pháp dạy học một cách dễ dàng và tiết kiệm được thời gian. Tuy nhiên hệ thống các công cụ đang khá rời rạc, chưa tối ưu hóa được cơ sở dữ liệu, chưa đồng bộ hóa ở tất cả các khâu, các hoạt động của cả một khóa học, chưa ổn định và phần lớn mới đang tập trung ở khâu quản lý cơ sở đào tạo, quản lý dữ liệu chứ chưa có những ứng dụng nổi bật và đồng bộ trong giảng dạy, trong chương trình đào tạo.

Do đó, để tiến gần đến xu hướng phù hợp trong đào tạo báo chí - truyền thông giai đoạn hiện nay, các cơ sở đào tạo nghề nghiệp công lập cần từng bước chuẩn bị các nguồn lực để xây dựng các khóa đào tạo mở trong chương trình đào tạo truyền thống như một mô hình thử nghiệm cho sự chuyển đổi toàn diện ở những giai đoạn sau. Tuy nhiên các khóa học mở hay các chương trình đào tạo mở này cần được vận hành đúng nghĩa với mô hình giáo dục mở như đã đề cập ở trên hay chính là bước đầu xây dựng một chương trình học, một khóa học ảo với quy mô vừa sức để vận hành bằng công nghệ số, người dạy bằng công nghệ và người học bằng công nghệ số.

Các bước cơ bản được khuyến nghị từ các chuyên gia nghiên cứu về giáo dục mở đề xuất các bước cơ bản sau:

Bước 1: Triển khai xây dựng môi trường đào tạo linh động

Theo hình thức truyền thống, môi trường học tập chủ yếu tập trung vào địa điểm và không gian. Môi trường học tập hiệu quả không giới hạn về thời gian hay không gian, mà bao gồm nhiều hệ thống hỗ trợ khác nhau đến cách thức học tập tốt nhất, chủ yếu ứng dụng công nghệ số: khóa học trực tuyến, lớp học ảo, trải nghiệm thực tế ảo...

Bước 2: Xây dựng hệ thống tài liệu học tập không giới hạn

Nhu cầu tìm kiếm và tham khảo tài liệu học tập của người học luôn là vấn đề được chú ý của ngành giáo dục. Vậy nên, việc chuyển đổi số sẽ xây dựng lên một kho tàng kiến thức phong phú và đa dạng tạo thuận lợi cho sinh viên dễ dàng tham khảo và sử dụng như một công cụ quan trọng để có thể hoàn thành khóa học hoặc chương trình học. Bên cạnh đó, ứng dụng công nghệ cũng sẽ giúp cho việc chia sẻ và trao đổi tài liệu của mọi người một cách nhanh chóng với chi phí thấp hơn so với tổ chức in ấn, xuất bản.

Bước 3: Chú trọng nâng cao các phương thức tương tác giữa sinh viên – giảng viên

Hiện nay, việc học trực tuyến qua các trang web hay ứng dụng phần mềm đang khá phổ biến tại Việt Nam. Cách thức học này giúp nâng cao tương tác và tạo thuận lợi cho sinh viên và giảng viên dễ dàng kết nối, nói chuyện và trao đổi với nhau. Việc ứng dụng chuyển đổi số một cách linh hoạt vào đào tạo sẽ tạo thêm nhiều trải nghiệm mới mẻ, thú vị giúp tạo tinh thần hứng thú học tập và giảm sự căng thẳng cho sinh viên trong mỗi buổi học.

Bước 4: Ứng dụng đa dạng các công nghệ số vào giảng dạy

Trong bối cảnh phát triển của công nghệ 4.0, tình hình nghiên cứu và ứng dụng chuyển đổi số trong giáo dục đang dần được quan tâm nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Từ việc cập nhật phương thức và áp dụng các phần mềm công nghệ phù hợp với xu hướng, chất lượng đào tạo sẽ có những đổi mới tích cực thông qua việc giảng viên vận dụng phương pháp giảng dạy tiên tiến, kết hợp sử dụng các công cụ dạy học hiện đại, các nội dung đào tạo sẽ được truyền đạt hiệu quả, các bài giảng số chất lượng, sáng tạo đến với người học. Vì là đào tạo mở nên nội dung, phương pháp, chất lượng giảng dạy được cập nhật, nâng cấp thường xuyên để không ngừng thu hút được người học.

Bước 5: Tối ưu hóa chi phí giảng dạy

Xu hướng công nghệ hiện đại và ứng dụng loại hình đào tạo mở đang dần được quan tâm tại Việt Nam. Phương thức học này sẽ giúp tiết kiệm chi phí về quản lý, cơ sở vật chất, mặt bằng và thiết bị giảng dạy. Với hình thức này người dạy và người học sẽ được thực hiện ở nhiều khoảng cách khác nhau và tạo ra nhiều sự lựa chọn phù hợp cho sinh viên. Trong điều kiện xây dựng mô hình đào tạo mở từng phần thì vẫn cần thiết phải có thu phí cho các khóa học hoặc chương trình học song song với mô hình đào tạo truyền thống hoặc xây dựng các hình thức học bổng từng phần, toàn phần để thu hút người học.

Thứ hai, cập nhật khung năng lực số cho giảng viên đại học và người học trong đào tạo báo chí - truyền thông.

Bên cạnh hàng loạt những đổi mới về mục tiêu đào tạo, chương trình đào tạo, chuẩn đầu ra của chương trình, nội dung giảng dạy, phương pháp giảng dạy, cách thức tiến hành khóa học... để xây dựng được môi trường đào tạo báo chí - truyền thông theo mô hình đào tạo số, đào tạo mở, nhất thiết phải bổ sung khung năng lực số cho cả người học và người dạy. Những năng lực mới cần được đào tạo, bồi dưỡng này không chỉ giúp các cá nhân có thể tham gia được vào quy trình đào tạo mở mà còn có vai trò quyết định trong việc hình thành năng lực cần thiết để sống, học tập, làm việc và tham gia vào giao tiếp xã hội thời đại ngày nay một cách chủ động, tích cực, an toàn. Điều này lại càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đối với lĩnh vực thông tin và truyền thông.

Năng lực số được hiểu là những khả năng phù hợp của cá nhân để sống, học tập và làm việc trong một xã hội số [JISC, 2014]. Năng lực số cũng được coi là những thực hành có hệ thống nhằm phát triển khả năng của các cá nhân hoặc tổ chức trong thế giới hiện đại và để đảm bảo an toàn thông tin cho các cá nhân và tổ chức đó [Balyk, et al., 2020]. Theo đó, năng lực số không chỉ bao gồm những kỹ năng tìm kiếm thông tin trực tuyến, mà còn gồm các thao tác đòi hỏi chuyên môn cao như thiết kế vấn đề, giải quyết vấn đề, chia sẻ và cộng tác với các cá nhân trong môi trường số.

Đối với người học, khung năng lực số cơ bản cần được trang bị bao gồm 7 năng lực chính sau:

(1) Vận hành thiết bị và phần mềm: Nhận biết, lựa chọn và sử dụng các thiết bị phần cứng và ứng dụng phần mềm để nhận diện, xử lý dữ liệu, thông tin số trong giải quyết vấn đề và vận hành các hoạt động trong chương trình học.

(2) Khai thác thông tin và dữ liệu: Nhận diện được nhu cầu thông tin của cá nhân; triển khai các chiến lược tìm tin, định vị và truy cập được thông tin; đánh giá các nguồn tin và nội dung của chúng; lưu trữ, quản lý và tổ chức thông tin; sử dụng thông tin phù hợp với đạo đức và pháp luật.

(3) Giao tiếp và hợp tác trong môi trường số: Tương tác và giao tiếp thông qua công nghệ số và thực hành các hoạt động trong những vai trò khác nhau. Quản lý định danh và uy tín số của bản thân trong môi trường số. Sử dụng công cụ và công nghệ số để hợp tác, cùng thiết kế, tạo lập các nguồn tin và tri thức.

(4) An toàn và an sinh số: Bảo vệ các thiết bị, nội dung, dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư trong môi trường số. Bảo vệ sức khỏe và tinh thần. Nhận thức về tác động của công nghệ số đối với hạnh phúc xã hội và hòa nhập xã hội. Nhận thức về ảnh hưởng của công nghệ số và việc sử dụng chúng đối với môi trường.

(5) Sáng tạo nội dung số: Tạo lập và biên tập nội dung số. Chuyển đổi, kết hợp thông tin và nội dung số vào vốn tri thức sẵn có. Hiểu rõ về hệ thống giấy phép và bản quyền liên quan đến quá trình sáng tạo nội dung số.

(6) Học tập và phát triển kỹ năng số: Nhận diện được các cơ hội và thách thức trong môi trường học tập trực tuyến. Hiểu được nhu cầu và sở thích cá nhân với tư cách là người học tập trong môi trường số. Thúc đẩy truy cập mở và chia sẻ thông tin. Ý thức được tầm quan trọng của việc học tập suốt đời đối với sự phát triển cá nhân.

(7) Sử dụng năng lực số cho nghề nghiệp: Vận hành các công nghệ số trong các bối cảnh nghề nghiệp đặc thù. Hiểu, phân tích và đánh giá dữ liệu, thông tin và nội dung số đặc thù trong hoạt động nghề nghiệp. Thực hành đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp trong môi trường số.

Đối với giảng viên, nâng cao năng lực số cho GV đóng vai trò quan trọng, để giải quyết những thách thức trong bối cảnh phát triển và ứng dụng CNTT - TT trong giáo dục ngày nay, bao gồm cả các yêu cầu chuyển đổi số quốc gia.

Thông qua đó, GV phát triển các năng lực số để có đủ kiến thức, kỹ năng và nhận thức, phục vụ hoạt động nghiên cứu và giảng dạy một cách sáng tạo và linh hoạt trên nền tảng số cũng như tham gia giảng dạy các khóa đào tạo mở. Trên thế giới, một số khung được sử dụng phổ biến nhất trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo là Khung Năng lực số cho nhà giáo dục (Digital Competence Framework for Educators: DigCompEdu) của Liên minh châu Âu [Redecker, 2017], và Khung năng lực số của Ủy ban Hệ thống Thông tin Liên hợp (Digital Capability Framework của Joint Information Systems Committee - JISC), một tổ chức phi lợi nhuận hỗ trợ nghiên cứu và giáo dục đại học của Vương quốc Anh.

Nhìn chung, các khung trên đã cung cấp các đặc điểm của năng lực số áp dụng cho người dạy, là cơ sở để tham khảo giúp xác định mức độ đáp ứng các yêu cầu về năng lực số trong môi trường giáo dục - đào tạo, giúp hỗ trợ nghiên cứu và giảng dạy, định hướng cho phát triển nghề nghiệp. Các khung này được sử dụng để giúp đánh giá thực trạng năng lực số của GV, giúp thiết kế các chương trình phù hợp để phát triển năng lực số, và hoạch định phát triển năng lực số.

TS. Lưu Huyền Trang

Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất