Thứ Bảy, 26/10/2024
Tuyên truyền
Thứ Sáu, 3/6/2016 16:50'(GMT+7)

“Hồ Chí Minh - Tầm nhìn thời đại”

Sáng nay 3-6, tại TPHCM, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức Hội thảo khoa học “Hồ Chí Minh - Tầm nhìn thời đại”. Đây là hoạt động thiết thực kỷ niệm 105 năm Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (5-6-1911 - 5-6-2016).

Tham dự hội thảo có các đồng chí: Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương; Đinh La Thăng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy TPHCM; nguyên Bí thư Thành ủy Lê Thanh Hải; nguyên Phó Chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa; Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Tất Thành Cang; Chủ tịch UBND TPHCM Nguyễn Thành Phong; Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - GS.TS Nguyễn Xuân Thắng; đại diện lãnh đạo các bộ ban ngành Trung ương, các đồng chí trong Ban Thường vụ Thành ủy cùng đông đảo các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, các nhà lãnh đạo, quản lý.

Cách đây vừa tròn 105 năm, năm 1911, từ thành phố Sài Gòn, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước. Bằng trí tuệ mẫn tiệp, siêu phàm, tầm nhìn rộng mở, Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành người cộng sản, chiến sĩ quốc tế xuất sắc, tìm thấy con đường cứu nước duy nhất đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Với tầm nhìn thời đại, Người đã làm sáng rõ con đường cách mạng Việt Nam, soi đường, chỉ lối cho Đảng và dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Phát biểu đề dẫn tại hội thảo, GS.TS Nguyễn Xuân Thắng khẳng định, hội thảo khoa học kỷ niệm 105 năm Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước và 40 năm Thành phố mang tên Bác được tổ chức hôm nay là dịp để chúng ta bày tỏ lòng tôn kính đối với Người; đồng thời để chúng ta nhận thức đầy đủ hơn nữa những giá trị sự kiện Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước cách đây 105 năm, cũng như tầm nhìn thời đại của Người đối với những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Và điều hết sức có ý nghĩa là chúng ta cùng nhìn nhận những giá trị của sự kiện ấy, tầm nhìn ấy đã và đang được phát huy trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung, sự phát triển của Thành phố mang tên Bác nói riêng.

“Hồ Chí Minh - Tầm nhìn thời đại”

Tại Hội thảo, các tham luận, các ý kiến đã tập trung đi sâu, làm rõ nội dung “Hồ Chí Minh - Tầm nhìn thời đại” theo những vấn đề cơ bản sau:

Thứ nhất, tầm nhìn thời đại trong việc tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc


Chúng ta biết rằng, cuối thế kỷ XIX, nước Việt Nam phong kiến độc lập đã biến thành nước thuộc địa nửa phong kiến do sự xâm lược của thực dân Pháp. Một lẽ tự nhiên, sự phản kháng của nhân dân thể hiện qua các phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp theo những ngả đường và khuynh hướng khác nhau đã liên tiếp nổ ra, nhưng kết cục đều đi đến thất bại, không có đường ra. Điều này thể hiện mâu thuẫn giữa sức sống, tinh thần đấu tranh anh dũng, bền bỉ của dân tộc với sự khủng hoảng về đường lối cứu nước, về giai cấp tổ chức, lãnh đạo cuộc đấu tranh.

Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) rất khâm phục ý chí đấu tranh giành độc lập dân tộc của các bậc tiền bối, nhưng không tán thành đường lối cứu nước của họ. Trong bối cảnh những năm đầu thế kỷ XX, vào tháng 6 năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết chí ra đi tìm đường cứu nước. Người đi sang phương Tây, nhưng không phải đi tìm chỗ dựa, hoặc cầu viện các thế lực bên ngoài để cứu nước, mà là đi xem các nước làm như thế nào về giúp đồng bào mình.

Quyết định sang Pháp là một quyết định có ý nghĩa lịch sử, thể hiện rõ tầm nhìn, tư duy độc lập, sáng tạo của Người. Hồ Chí Minh đã mở tầm nhìn ra thế giới, mà là thế giới phương Tây chứ không quẩn quanh khu vực châu Á hàng ngàn năm ngự trị chế độ phong kiến, bế quan toả cảng. Người đã thể hiện bản lĩnh ra nước ngoài xem cho rõ, tới tận nguồn, không choáng ngợp trước nền văn minh phương Tây, sẵn sàng tiếp biến tinh hoa, trí tuệ của thời đại. Người tự phân tích, đánh giá ý nghĩa của các sự kiện lớn trên thế giới, đặc biệt là các cuộc cách mạng xã hội. Bắt đầu từ lòng yêu nước, sự nhạy cảm với cái mới, cái tiến bộ, dựa trên tiêu chí ai, tổ chức nào bênh vực các dân tộc thuộc địa, ủng hộ và đoàn kết với họ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc, giành độc lập dân tộc, Người đã định hình ra con đường để đòi các quyền tự do, dân chủ tối thiểu cho nhân dân mình.

Tại Pari thủ đô nước Pháp, lúc này được coi là “trung tâm liên minh thế giới của bọn đế quốc”, Người đã có một bước phát triển mới trong nhận thức về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc khi tiếp nhận ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Mặc dù, chưa hiểu hết ý nghĩa cực kỳ to lớn của cách mạng tháng Mười, nhưng với Người, đây là một biến cố to lớn, “có một sức lôi cuốn kỳ diệu vô cùng”. Đặc biệt, từ tháng 7-1920, khi tiếp xúc với bản “Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin, con đường cứu nước mà Người đang khát khao tìm kiếm. Người đã tìm thấy ở Luận cương của V.I.Lênin những giải đáp về con đường giải phóng cho các dân tộc thuộc địa, trong đó có Việt Nam.

Thứ hai, tầm nhìn thời đại trong việc xác lập, kiến tạo mô hình xã hội gắn với các thiết chế hiện đại.

Cuộc hành trình tìm đường cứu nước tháng 6 năm 1911 của Nguyễn Tất Thành là cuộc tìm kiếm một con đường tranh đấu không chỉ nhằm giải quyết một mục tiêu như các bậc tiền bối: giành độc lập dân tộc, mà có mục tiêu “kép” là cứu nước và cứu dân. Chính vì vậy, quyết định đi sang phương Tây của Nguyễn Tất Thành là sự đoạn tuyệt đối với mô hình chính trị nhà nước quân chủ, phong kiến phương Đông, mở đầu cho quá trình nghiên cứu, tìm hiểu xã hội phương Tây.

 Từ năm 1911 đến năm 1920, bằng việc khảo cứu các nước thuộc địa và các nước tư bản lớn như Mỹ, Anh, Pháp, Người đã có những nhận thức quan trọng trong việc tìm kiếm mô hình thể chế chính trị tương lai cho đất nước.

Bằng khảo nghiệm các mô hình thể chế chính trị, mô hình nhà nước trên thế giới và tổng kết thực tiễn Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc và Đảng đã đi tới lựa chọn mô hình cộng hòa dân chủ, tạo nên động lực cho cao trào vận động dân chủ sôi nổi trong những năm 1936- 1939. Trong cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939- 1945, Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh và Đảng tiếp tục tìm tòi, khảo nghiệm và đi tới lựa chọn thể chế chính trị, mô hình nhà nước thích hợp hơn, đó là thể chế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Thể chế chính trị Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là mô hình Nhà nước, là thể chế chính trị mới được Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng xác định tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8, tháng 5-1941. Mặt trận Việt Minh là một kiểu nhà nước tiền chính phủ với chương trình hành động thể hiện rõ quyền lực thuộc về nhân dân, một thể chế chính trị xã hội quá độ của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mô hình thể chế đó là động lực, là ngọn cờ vẫy gọi toàn thể dân tộc Việt Nam vùng lên làm cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, xác lập được một thể chế chính trị xã hội mới theo sự tìm chọn của Nguyễn Ái Quốc, vì mục tiêu độc lập dân tộc, dân quyền và dân sinh, tự do, hạnh phúc.

Thứ ba, tầm nhìn thời đại trong việc xác định con đường phát triển của dân tộc Việt Nam

Với việc nắm bắt chính xác đặc điểm, xu thế của thời đại, Hồ Chí Minh đã xác định con đường phát triển cho dân tộc phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử - con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội không chỉ thể hiện sự khác nhau về chất giữa con đường cứu nước giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh với con đường cứu nước, giải phóng dân tộc theo hệ tư tưởng phong kiến, hay hệ tư tưởng tư sản mà còn thể hiện rõ nét sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội từ sự lựa chọn của Hồ Chí Minh, đã trở thành lý tưởng và mục tiêu phấn đấu của cách mạng Việt Nam.

Độc lập dân tộc theo Hồ Chí Minh phải là một nền độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn, tức là phải được độc lập trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng, ngoại giao… trong đó, trước hết và quan trọng nhất là độc lập thực sự, hoàn toàn về chính trị. Độc lập dân tộc phải gắn liền với hoà bình. Độc lập dân tộc phải đi tới tự do hạnh phúc của nhân dân. Độc lập dân tộc là tiền đề đi lên chủ nghĩa xã hội.

Chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh, tự nó có khả năng tạo ra sự phát triển, khác rất xa cái chủ nghĩa xã hội mà nhiều người ngộ nhận với những tiêu chí có tính áp đặt, xa vời, phi hiện thực. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội là hết sức bình dị, gần gũi với cuộc sống thường ngày. Quan niệm chung nhất của Bác về chủ nghĩa xã hội - đó là một xã hội đáp ứng ngày càng cao và toàn diện mọi nhu cầu chính đáng của con người. Chính xuất phát từ quan điểm độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do và hạnh phúc của nhân dân mà Hồ Chí Minh hình thành nên triết lý phát triển của một xã hội nhân văn, một mục tiêu với nội dung thống nhất của cách mạng Việt Nam: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Đối với Hồ Chí Minh, một xã hội phát triển phải được phát triển toàn diện, trong đó tự do, hạnh phúc của con người là tiêu chí quan trọng nhất, cốt lõi xuyên suốt của chế độ xã hội. Nội dung chủ nghĩa xã hội do Hồ Chí Minh nêu lên thể hiện toàn bộ tư tưởng của Người là mưu cầu hạnh phúc cho hết thảy mọi người trên trái đất và đó cũng là điều cốt lõi trong triết lý phát triển xã hội của Người.

Đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đưa ra một hệ thống quan điểm toàn diện. Từ góc độ động lực của sự phát triển, Người cho rằng: Chủ nghĩa xã hội là do quần chúng nhân dân tự xây dựng nên. Đó là lực lượng có ý thức lao động tập thể, tinh thần thi đua yêu nước, dám nghĩ, dám làm, ý thức cần kiệm. Trong cải tạo và xây dựng xã hội, phải giải quyết hàng loạt mâu thuẫn khác nhau. Do đó, Người lưu ý cán bộ, đảng viên không được chủ quan, nóng vội, phải xác định đúng bước đi và các hình thức biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội…Làm được như vậy, chủ nghĩa xã hội không chỉ là ước mơ mà bản thân nó tiềm chứa khả năng tối ưu (so với tất cả các xã hội đã từng tồn tại trong lịch sử) trong việc tạo ra sức sống nội sinh và động lực mạnh mẽ thúc đẩy xã hội tiến lên.

Thứ tư, tầm nhìn thời đại trong xây dựng nhân cách, phẩm giá con người Việt Nam

Ngay từ những năm 20 của thế kỷ trước, khi biên soạn cuốn Đường cách mệnh (1927), để đào tạo cán bộ chuẩn bị thành lập Đảng, Người đã mở đầu tác phẩm bằng một mục lớn: “Tư cách một người cách mệnh”. Trong đó, Người đã xác định những yêu cầu về đạo đức mà người cách mệnh phải có như: “Vị công vong tư. Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng ham muốn về vật chất...Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm...Quyết đoán. Dũng cảm. Phục tùng đoàn thể”. Trong Nhật ký trong tù (1943), bài Mục đọc sách, Người đặt lên hàng đầu xây dựng tâm lý dân tộc, tâm lý con người. Trong Sửa đổi lối làm việc (1947), Hồ Chí Minh đưa ra nhiều ý tưởng về cấu trúc nhân cách, được cụ thể hóa thành các chuẩn mực nhân, nghĩa, trí, dũng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.

Với Hồ Chí Minh, trong xây dựng nhân cách, phẩm giá con người Việt Nam, đặc biệt là cán bộ, đảng viên thì lòng yêu nước, thương dân được đặt lên hàng đầu. Theo Người, yêu nước, thương dân phải trở thành lẽ sống. Người đã từng khái quát về triết lý cuộc sống: “Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề là vấn đề ở đời và làm người”. Ở đời và làm người là phải yêu nước, thương dân, thương nhân loại khổ đau bị áp bức. Theo đó, lòng yêu nước, thương dân phải biến thành hành động đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người.

Hồ Chí Minh coi đạo đức là gốc, là nền tảng của con người, nhất là người cách mạng, giống như gốc của cây, nguồn của sông suối. Bởi vì, có đạo đức cách mạng trong sáng mới làm được những việc cao cả, vẻ vang; đạo đức là thứ vũ khí sắc bén trong cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới; đạo đức giúp cho con người luôn giữ được nhân cách, bản lĩnh của mình trong mọi hoàn cảnh; đạo đức cũng là tiêu chí đánh giá sự cao thượng của con người…Trong đạo đức cách mạng, Người đặc biệt đề cao phẩm chất trung với nước, hiếu với dân, vì nước, vì dân; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; coi đó là phẩm chất không thể thiếu được của mỗi con người, nhất là đối với cán bộ, đảng viên.

Hồ Chí Minh không chỉ để lại một hệ thống quan điểm về xây dựng nhân cách, phẩm giá con người Việt Nam mà còn là tấm gương mẫu mực về nhân cách, đạo đức cách mạng, về sự nhất quán giữa tư tưởng và hành động, giữa nói và làm. Người là hiện thân của sự toàn mỹ về nhân cách người cộng sản: yêu đồng bào, yêu nhân loại; uyên bác mà cực kỳ khiêm tốn; triệt để cách mạng và vô cùng nhân từ; vĩ đại mà rất mực bình dị; chói sáng mà không choáng ngợp…Người là mẫu hình cao đẹp của vị lãnh tụ gần gũi nhân dân, là sự kết tinh những giá trị cao quý nhất của văn hóa, đạo đức Việt Nam.

 Thứ năm,  tầm nhìn thời đại về quan hệ quốc tế và giải quyết các vấn đề quốc tế

Ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nhanh chóng nắm bắt được đặc điểm của thời đại mới, thời đại sau cách mạng Tháng Mười và tổng kết, khái quát thành những quan điểm lí luận về nhu cầu, khả năng, điều kiện hợp tác giữa các dân tộc.

Sau khi nắm bắt được đặc điểm của thời đại mới, Hồ Chí Minh đã hoạt động tích cực để gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Người không chỉ xuất phát từ những mục đích chính trị - xã hội của thời đại - độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội, mà còn vì sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất thế giới. Trong tư tưởng của Người, hợp tác quốc tế là để xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu, tiến kịp các nước trên thế giới và sâu xa là đặt chiến lược phát triển đất nước ta gắn liền với những chuyển biến mang tính thời đại.

Với tầm nhìn chiến lược đó, Người chủ trương mời những nhà chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu giúp cho chúng ta trong cuộc kiến thiết quốc gia. Trong lời kêu gọi gửi tới Liên hợp quốc năm 1946, Hồ Chí Minh nêu rõ: Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình; Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường xá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế; Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc... Sau khi miền Bắc được giải phóng, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đẩy mạnh mở rộng hợp tác quốc tế nhằm trao đổi, giao thương, tranh thủ sự viện trợ kinh tế, kỹ thuật của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và các lực lượng dân chủ, hòa bình thế giới.

Trong quan hệ hợp tác quốc tế, Hồ Chí Minh xác định chính sách đối ngoại của Việt Nam là “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”. Trong bối cảnh quốc tế phức tạp, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã khéo léo chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam theo con đường độc lập, tự chủ, sáng tạo, phát huy nội lực của toàn dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, để giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước.

Bốn mươi năm thành phố mang tên Bác

Trải qua 40 năm thành phố mang tên Bác, trong đó có 30 năm cùng cả nước thực hiện đường lối đổi mới, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố đã kế thừa và không ngừng phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần năng động, vận dụng sáng tạo các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước phù hợp với đặc điểm thực tiễn của Thành phố. Đặc biệt, biết phát huy những giá trị của sự kiện ngày 5 - 6 - 1911 trong công cuộc đổi mới, đưa Thành phố có những bước phát triển vượt bậc. Thành phố luôn là nơi có những ý tưởng đổi mới, sáng tạo; đầu tàu kinh tế và đột phá phát triển của cả nước. Những thành tựu mà thành phố đạt được trên tất cả các mặt: Kinh tế,văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, đã làm thay đổi diện mạo, làm cho thành phố Hồ Chí Minh trở thành địa chỉ thu hút khách trong nước và quốc tế, là một nơi mọi người muốn đến và đáng sống.

Với tầm vóc anh hùng của một dân tộc anh hùng, đỉnh cao văn hóa của quốc gia văn hiến, Đảng bộ và nhân dân thành phố Hồ Chí Minh hết sức vinh dự, tự hào, quyết tâm xây dựng Thành phố ngày càng văn minh, hiện đại, nghĩa tình, góp phần xứng đáng cùng cả nước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa theo con đường mà Bác đã vạch ra.

Tại hội thảo, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Tất Thành Cang chia sẻ, ngày nay, Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) là đô thị đặc biệt, một trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, đầu mối giao lưu và hội nhập quốc tế; là đầu tàu, động lực, có sức hút và sức lan tỏa lớn của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có vị trí chính trị quan trọng của cả nước. Thành phố  “cùng cả nước, vì cả nước”, ra sức phấn đấu thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Theo Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Tất Thành Cang, từ cuộc Hội thảo khoa học này, chúng ta sẽ cùng nhau làm rõ giá trị và ý nghĩa của hành trình tìm đường cứu nước với tầm nhìn thời đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay. Chúng ta sẽ cùng nhau đi sâu phân tích giá trị vĩ đại, ý nghĩa sâu sắc của chuyến hành trình 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước thể hiện ở tầm nhìn vĩ đại của Người - Tầm nhìn thời đại, làm sáng tỏ những tư tưởng mới, đúng đắn, sáng tạo về con đường cách mạng giải phóng dân tộc; về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam; về đại đoàn kết dân tộc… đưa đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Từ đó, sẽ chắt lọc, chuyển tải những giá trị mang tầm thời đại đã và đang được Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam, Đảng bộ, Nhân dân TPHCM nghiên cứu, học tập, áp dụng trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, xây dựng, bảo vệ, phát triển Thành phố mang tên Người.

Cách đây vừa tròn 105 năm, năm 1911, từ thành phố Sài Gòn, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước. Ngày nay, trong công cuộc tiếp tục đổi mới toàn diện đất nước, trên cơ sở những gợi mở, định hướng, dự báo từ tầm nhìn thời đại của Hồ Chí Minh, toàn Đảng và toàn dân ta quyết tâm vận dụng, phát triển một cách sáng tạo những di sản ấy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hơn nơi nào hết, thành phố Hồ Chí Minh – nơi khởi nguồn của sự thay đổi từ 105 năm trước, với vị trí thành phố đầu tàu của cả nước luôn biết nâng niu, trân trọng và phát huy những giá trị ấy, đoàn kết, sáng tạo, đổi mới trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, để xây dựng Thành phố ngày càng văn minh, giàu đẹp, xứng đáng là thành phố mang tên Bác.  

Thu Hằng


Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất