Thứ Bảy, 23/11/2024
Tuyên truyền
Thứ Hai, 18/5/2009 22:43'(GMT+7)

Hồ Chí Minh với vấn đề đoàn kết đồng bào các dân tộc thiểu số

Bác Hồ với các đại biểu phụ nữ các dân tộc Việt Bắc (1959). Ảnh Quyết Thắng sưu tầm

Bác Hồ với các đại biểu phụ nữ các dân tộc Việt Bắc (1959). Ảnh Quyết Thắng sưu tầm

 Người nhận thức sâu sắc rằng, “lòng yêu nước của đồng bào, nhập với tình thế hiểm trở của núi sông thành một lực lượng vô địch”. Từ sự thấu hiểu tình hình, đặc điểm các dân tộc, vai trò, truyền thống tốt đẹp của đồng bào các dân tộc thiểu số, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Đảng ta tập hợp, cổ vũ đồng bào đóng góp sức mình cho sự nghiệp chung của dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là linh hồn của tinh thần đoàn kết các dân tộc. Bất kỳ ở đâu và trong thời điểm nào, Người cũng quan tâm, kêu gọi sự đoàn kết giữa các dân tộc, giữa dân tộc Kinh với các dân tộc thiểu số, giữa các dân tộc thiểu số với nhau để thực hiện khát vọng giành độc lập tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Ngay từ những ngày còn hoạt động ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao vị trí, tầm quan trọng, tiềm năng to lớn của miền núi và đồng bào các dân tộc thiểu số, từ đó hướng về họ, giác ngộ họ qua những cán bộ cốt cán do Người đào tạo và sách báo cách mạng. Bằng nhiều phương pháp tuyên truyền, vận động và giáo dục của những người cách mạng, quan điểm của Người về cách mạng giải phóng dân tộc, về đoàn kết và phương pháp đấu tranh cách mạng v,v... theo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin đã sớm đến với đồng bào các dân tộc thiểu số. Những người con ưu tú của đồng bào các dân tộc thiểu số Tày, Nùng… như Hoàng Đình Giong, Hoàng Văn Nọn, Hoàng Văn Thụ, Dương Đại Lâm v.v… đã vừa học tập lý luận Mác-Lênin, vừa xây dựng tổ chức quần chúng cách mạng, góp phần phát triển phong trào cách mạng của đồng bào dân tộc.

Là địa bàn chiến lược, phên dậu của Tổ quốc, là nơi có đông đảo đồng bào các dân tộc anh em cùng chung sống, là nơi dù phong tục, tập quán có khác nhau ít nhiều, nhưng tinh thần yêu nước, căm thù giặc và truyền thống đoàn kết thì muôn người như một, miền núi phía Bắc nói chung, và Cao Bằng nói riêng được vinh dự đón tiếp, bảo vệ và nuôi dưỡng lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh từ nước ngoài trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng cả nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, sức mạnh đoàn kết của đồng bào các dân tộc thiểu số được khơi dậy mạnh mẽ hoà cùng sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận Việt Minh, đã làm nên thành công của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, dẫn đến sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.

Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, mặc dù phải bảo vệ nền độc lập vừa mới giành được và xây dựng nền cộng hòa non trẻ với muôn vàn khó khăn thử thách, vừa phải cùng một lúc chống lại nạn đói, nạn dốt, nạn ngoại xâm…, nhưng với quan điểm nhất quán “đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn dành sự quan tâm đến đồng bào các dân tộc thiểu số. Ngày 3/12/1945, dưới sự chỉ đạo của Người, tại Đại hội lần thứ nhất các dân tộc thiểu số, đại diện của hơn 20 dân tộc anh em đã nắm tay nhau đoàn kết, xác định quyền lợi và nghĩa vụ của mình đối với chính quyền cách mạng(1). Sự họp mặt của đại biểu các dân tộc không chỉ thể hiện sự ủng hộ, lòng đoàn kết của đồng bào các dân tộc thiểu số, mà còn thể hiện quyết tâm của khối đại đoàn kết toàn dân trong bối cảnh thù trong, giặc ngoài đang đe dọa sự tồn vong của dân tộc.

Nhằm thống trị đất nước ta, thực dân Pháp đã ra sức thực hiện âm mưu chia rẽ dân tộc, lập các xứ “tự trị” cho một số vùng dân tộc thiểu số như Tây Kỳ (Tây Nguyên), xứ Nùng (Móng Cái, Lạng Sơn), xứ Mường (Hoà Bình), xứ Thái (Tây Bắc), hòng ly gián, chia rẽ khối đoàn kết của toàn dân tộc. Trước tình hình đó, thực hiện chủ trương đoàn kết dân tộc của Đảng, Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam được tổ chức tại Plâycu, ngày 19-4-1946. Dù bộn bề công việc và không thể đến dự cùng đồng bào, song Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng và Chính phủ gửi thư cho Đại hội. Trong thư, Người vạch rõ những âm mưu thâm độc của bè lũ đế quốc, phong kiến và nêu cao tinh thần đoàn kết của đồng bào các dân tộc. Người viết: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau”(2), nên tất cả chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để “giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta”. Cũng theo Người, chúng ta phải “quyết góp chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự do, độc lập”, dù “sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt”. Đặc biệt, Người nhấn mạnh: “Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta”(3) và để làm được điều đó, một cơ chế đảm bảo sức sống cho khối đoàn kết đó chính là “Trong Quốc hội có đủ đại biểu các dân tộc. Chính phủ thì có Nha dân tộc thiểu số” để săn sóc tất cả các đồng bào. Đại hội và bức thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Đại hội chính là sự khẳng định đanh thép tình đoàn kết sắt đá không thể phá vỡ của cộng đồng các dân tộc anh em sống trên dải đất Việt Nam, vì một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh.

Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược và xây dựng CNXH ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà, thông qua nhiều bài viết, bài nói (Gửi đồng bào Thượng du, ngày 7-4-1947; Thư gửi đồng bào các tỉnh Cao - Bắc - Lạng, ngày 2-9-1947; Thư gửi đồng bào Tây Bắc và bộ đội Tây Bắc, ngày 25-11-1953; Thư gửi đồng bào Khu tự trị Thái- Mèo, ngày 7-5-1955; Thư gửi các học sinh trường Sư phạm miền núi trung ương ngày 19-3-1955; Nói chuyện với Đoàn đại biểu các dân tộc ít người về dự kỷ niệm ngày 1-5 ở Thủ đô, ngày 2-5-1959; Thư khen đồng bào, bộ đội và cán bộ Khu Việt Bắc, ngày 28-7-1965, v…). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện đậm nét và rõ ràng tư tưởng về đoàn kết đồng bào các dân tộc anh em là nền tảng của quan hệ dân tộc, là mục tiêu và cũng là chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam để giữ gìn và bảo vệ đất nước. Trong quá trình cách mạng, tư tưởng này đã được thể hiện một cách sinh động trong thực tiễn.

Cũng từ những tác phẩm đó và thông qua chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước và những hoạt động thực tiễn của Người, chiến lược đoàn kết đồng bào các dân tộc thiểu số, “chú ý đến đồng bào vùng cao và ngày càng hết sức chú ý giúp đỡ đồng bào nhiều hơn nữa” được thực hiện xuyên suốt trong mọi thời điểm cách mạng. Đó không phải là một thủ đoạn chính trị, đó cũng không phải là đoàn kết một cách mơ hồ, chung chung, gò ép, mà là đường lối chiến lược về đoàn kết các dân tộc thiểu số và đại đoàn kết toàn dân nhằm “xoá bỏ xích mích do đế quốc và phong kiến gây ra”, để cùng nhau đoàn kết chặt chẽ trên cơ sở bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau. Trên tinh thần đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn những lời tâm huyết: Trong khi tuyên truyền cho đồng bào các dân tộc thiểu số, người cán bộ, đảng viên phải thấu hiểu phong tục, tập quán, tâm tư, nguyện vọng của đồng bào; phải hiểu “đồng bào các dân tộc rất thật thà và rất tốt. Nếu nói đúng thì đồng bào nghe, đồng bào làm và làm được”, do đó phải “xuất phát từ nhiệt tình cách mạng, tình thương yêu chân thành đồng bào các dân tộc, từ tinh thần phục vụ đồng bào các dân tộc”(4) để giúp đỡ, cổ vũ đồng bào đoàn kết. Người cũng nói, đoàn kết là sức mạnh vô địch, đoàn kết làm nên thành công, vì vậy đồng bào các dân tộc “cần phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Đoàn kết giữa dân tộc mình, đoàn kết giữa các dân tộc”, “đoàn kết chặt chẽ với đồng bào cả nước”, nâng cao tinh thần cảnh giác, ngăn chặn bọn phản cách mạng âm mưu phá hoại cách mạng, phá hoại sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà và xây dựng CNXH của nhân dân cả nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói rằng, dù thuộc nhiều dân tộc, nhiều địa phương khác nhau, nhưng nước ta là một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc. Các dân tộc anh em gắn bó ruột thịt với nhau, sống trên một lãnh thổ chung và trải qua một lịch sử lâu đời cùng nhau lao động và đấu tranh để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nên “đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ”. Đồng bào các dân tộc anh em “đều là con em của đại gia đình chung: là gia đình Việt Nam, đều có một Tổ quốc chung: là Tổ quốc Việt Nam”(5), vì vậy muốn tiến bộ, muốn phát triển, “phải tẩy trừ những thành kiến giữa các dân tộc, phải đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ nhau như anh em một nhà”(6). Không phải ngẫu nhiên, khi nói chuyện tại Đại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất toàn quốc 9-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Việc đầu tiên và cấp bách mà chúng ta cần phải làm là “đánh thông tư tưởng mọi người”, làm cho mọi người giác ngộ về sự bình đẳng, về mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Bởi hơn ai hết, Người hiểu rằng: một trong những công việc phải làm để thực hiện thắng lợi những mục tiêu đoàn kết và bình đẳng giữa các dân tộc anh em, chính là phải làm cho đồng bào của dân tộc mình hiểu rõ được sự cần thiết, tính quy luật của mối quan hệ bình đẳng giữa các dân tộc trên cơ sở hiểu sâu sắc hơn giá trị truyền thống của dân tộc mình. Nhất quán tư tưởng nước Việt Nam là đại gia đình chung của tất cả các dân tộc anh em, việc chuẩn bị chu đáo về mặt tư tưởng trong nhân dân, trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhà nước đã giúp cho “tư tưởng đúng thì hành động mới khỏi sai lạc”.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết đồng bào các dân tộc thiểu số nhằm “thực hiện sự bình đẳng giúp nhau giữa các dân tộc” và quyền bình đẳng đó được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục. Ánh sáng tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Người không chỉ mở đường thắng lợi cho đồng bào các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng, mà còn cổ vũ đồng bào các dân tộc thiểu số anh em giữ vững niềm tin, thực hiện khát vọng độc lập, tự do của Người và của toàn dân tộc trong suốt chặng đường kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam CNXH.

Từ thực tiễn là một quốc gia đa dân tộc, do điều kiện tự nhiên khác nhau, do sự phát triển không đồng đều giữa miền núi và miền xuôi, và sự khác nhau giữa các dân tộc anh em, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: những chủ trương, biện pháp để phát triển mọi mặt đời sống xã hội của đồng bào dân tộc thiểu số ở các địa bàn trong cả nước cũng không thể rập khuôn, máy móc như nhau. Người quan niệm, để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số, để phát triển miền núi cũng như đồng bằng, để không chỉ bảo tồn mà còn phát huy được những nét độc đáo, bản sắc của từng dân tộc trong quá trình phát triển, Đảng, Chính phủ và các cấp chính quyền không chỉ phải có một chính sách dân tộc đúng đắn, một chiến lược đại đoàn kết với đồng bào các dân tộc thiểu số, mà còn phải ưu tiên đào tạo đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số và trong từng hoàn cảnh cụ thể đòi hỏi phải có những bước đi thích hợp. Người thường xuyên nhắc nhở, các cấp uỷ đảng, cán bộ, đảng viên phải gương mẫu; phải tôn trọng phong tục, tập quán của đồng bào, tạo mọi điều kiện để phát huy quyền làm chủ của đồng bào các dân tộc thiểu số ở miền núi và trung du, giúp họ tiến bộ về mọi mặt, nhanh chóng thoát khỏi cảnh đói nghèo, lạc hậu. Ngay từ tháng 11-1945, khi nói chuyện với đoàn đại biểu các dân tộc ít người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Chính phủ cũng sẽ giúp đồng bào Thổ, Mán như sẽ giúp các dân tộc nhỏ khác có đủ ruộng làm, đủ trâu bò cày v.v… Trên cơ sở đó, đồng bào sẽ yên tâm sản xuất, huy động triệt để mọi sức mạnh để sản xuất và xây dựng cuộc sống mới.

Trong tư tưởng của Người về đoàn kết giữa các dân tộc anh em, không hề có chỗ cho tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi và tự ty dân tộc. Trên tinh thần tôn trọng sự khác nhau, sự đa dạng trong văn hoá và ngôn ngữ , nhưng cùng chung mục đích, khát vọng về xây dựng một nước Việt Nam độc lập và XHCN, Người tin tưởng vào khả năng vươn lên của đồng bào các dân tộc, với tinh thần “cái gì miền xuôi làm được, thì miền ngược cũng làm được”, đồng thời đặc biệt chú ý vai trò to lớn của Nhà nước và Trung ương, sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc. Người cũng rất quan tâm đến việc đào tạo cán bộ, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo người các dân tộc thiểu số. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đề ra phương hướng, mục tiêu, yêu cầu và cũng đồng thời chỉ đạo việc sắp xếp, sử dụng đội ngũ cán bộ người dân tộc. Thân thiết, gần gũi như một người cha, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường động viên khuyến khích các tầng lớp đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi cố gắng vươn lên để tự phát triển kinh tế, văn hoá của dân tộc mình; nhắc nhở cán bộ người dân tộc khắc phục tư tưởng tự ty, ỷ lại, không dám đảm nhận những công việc lớn. Mặt khác, Người cũng thường xuyên nhắc nhở, yêu cầu cán bộ người dân tộc đa số phải chú ý giúp đỡ anh em cán bộ dân tộc thiểu số, không bao biện làm thay họ, để họ tiến bộ nhanh, tự quản lý được công việc của địa phương mình, dân tộc mình.

Trong suốt tiến trình cách mạng, sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào các dân tộc thiểu số, đoàn kết đồng bào các dân tộc thiểu số, thực hiện khát vọng xây dựng và bảo vệ giang sơn chung luôn được thực hiện một cách nhất quán. Những tình cảm thân thiết của Bác đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, cũng như những sự kiện về Hồ Chí Minh luôn cổ vũ, động viên, vun đắp tình đoàn kết với đồng bào các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp chung của dân tộc vẫn còn mãi. Đó là việc Người đã cử đồng chí Trần Đăng Ninh mang thư của Người lên Đồng Văn gặp “vua Mèo” Vương Chí Sình, vận động bầu họ Vương vào Quốc hội khoá I, rồi sau đó kết nghĩa anh em với vua Mèo. Đó là bức thư đầy tình nghĩa Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho dòng họ Đinh: Đinh Công Huy, Đinh Công Phủ, Đinh Công Niết (một trong bốn dòng họ danh giá của dân tộc Mường Hoà Bình: Đinh, Quách, Bạch, Hoàng). Đó còn là những người con dân tộc PaKô, Vân Kiều,v.v.. ở miền núi phía Tây Trường Sơn đã xin được đổi họ mang họ Hồ của Chủ tịch Hồ Chí Minh; đó là con em các dân tộc Ba Na, Kh’mer, K’ Ho, Chăm, Ca Tu, v.v. . gọi Người là Prák Hồ (Phật Hồ).

Một dân tộc Việt Nam của cộng đồng các dân tộc anh em, đoàn kết, bình đẳng, “thương yêu giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt như anh em một nhà” đã là sức mạnh chiến thắng mọi trở ngại, mọi hiểm nguy. Tư tưởng Hồ Chí Minh, chiến lược đại đoàn kết của Đảng ta về sự bình đẳng giữa các dân tộc anh em, cùng mưu cầu hạnh phúc, là con một nhà của đất nước Việt Nam thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh vốn đã thấm sâu vào trái tim, khối óc mỗi người dân Việt Nam, sẽ tiếp tục được thực hiện sinh động hơn trong công cuộc đổi mới đất nước./.

(*) Bảo tàng Hồ Chí Minh

————————

(1) Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Sơn La, Bác Hồ với Sơn La, 1986, tr.30

(2), (3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 1995, t.4, tr.217, 217

(4) Sđd, t.11, tr.138, 128

(5), (6) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.7, tr.496, 496

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất