Thứ Ba, 26/11/2024

Huyện ủy Ba Vì lãnh đạo xây dựng nông thôn mới

Nhờ nguồn vốn vay từ chương trình xây dựng NTM, nhiều hộ gia đình chăn nuôi bò sữa tại Ba Vì mở rộng sản xuất, có thu nhập tốt, ổn định cuộc sống.  Ảnh: Bá Hoạt

Nhờ nguồn vốn vay từ chương trình xây dựng NTM, nhiều hộ gia đình chăn nuôi bò sữa tại Ba Vì mở rộng sản xuất, có thu nhập tốt, ổn định cuộc sống. Ảnh: Bá Hoạt


Ba Vì là một huyện thuộc vùng bán sơn địa, nằm ở phía Tây Bắc của Thủ đô Hà Nội . Diện tích tự nhiên là 428km², dân số trên 27,5 vạn người, phân bố trên 31 đơn vị hành chính gồm 1 thị trấn (huyện lỵ) và 30 xã(1), trong đó dân số nông thôn chiếm 90% và lao động nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ cao (khoảng 70%). Điều kiện tự nhiên của Ba Vì tương đối phong phú và đa dạng tạo nên một hệ sinh thái khá giàu có về tiềm năng để phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa.

Theo quy hoạch chung xây dựng Thủ đô đến năm 2030 thì huyện Ba Vì nằm trong khu vực hành lang xanh, nhằm khuyến khích phát triển các hoạt động du lịch, phát triển các mô hình trang trại, nghiên cứu khoa học phục vụ nông nghiệp; khoanh vùng bảo vệ và bảo tồn các làng nghề truyền thống, các vùng đa dạng sinh thái, các vùng nông nghiệp năng suất cao; phát triển hệ thống hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật chung cho toàn đô thị, đặc biệt là hệ thống giao thông kết nối liên đô thị xây dựng một vùng nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH).

Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5-8-2008 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và Chương trình số 02-CTr/TU của Thành ủy Hà Nội (khóa XV) về phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, từng bước nâng cao đời sống nông dân giai đoạn 2011-2015, Huyện ủy Ba Vì luôn nhất quán quan điểm coi trọng lãnh đạo thực hiện thành công chương trình xây dựng NTM góp phần xây dựng Ba Vì nhanh chóng trở thành một huyện văn minh, hiện đại.

Dựa trên quy hoạch tổng thể của thành phố Hà Nội, Huyện ủy Ba Vì xây dựng định hướng phát triển NTM gắn với mô hình cấu trúc 3 trục ngang có chức năng kết nối Ba Vì với trung tâm Hà Nội và các tỉnh, huyện lân cận (gồm Quốc lộ 32, đường cao tốc Hồ Chí Minh và trục không gian sông Tích); 2 trục dọc có chức năng giao thông, kết nối các phân vùng nông nghiệp, du lịch và đô thị của toàn huyện (trục thứ nhất là hệ thống liên kết các đường tỉnh lộ 415 và 412B từ phía Tây núi Ba Vì đi Việt Trì; trục thứ hai là đường đê chạy ven sông Đà và sông Hồng bao quanh địa giới huyện Ba Vì); hình thành 8 trung tâm tạo động lực hỗ trợ phát triển dịch vụ, du lịch và nông nghiệp toàn huyện, kết nối và thúc đẩy phát triển các xã (2 đô thị là thị trấn Tây Đằng, đô thị Tản Viên Sơn, 6 trung tâm cụm xã: Vạn Thắng, Minh Quang, Nhông, Sơn Đà, Thụy An và Yên Bài).

Bên cạnh khu vực đô thị và thị trấn huyện gồm các trung tâm dịch vụ công cộng, không gian xanh, công viên vui chơi giải trí, dịch vụ hỗ trợ du lịch, hỗ trợ sản xuất, bảo đảm tiếp cận và sử dụng thuận lợi của mọi người dân trong huyện, Huyện ủy Ba Vì xác định rõ nhiệm vụ xây dựng NTM là tập trung vào khu vực thứ hai - khu vực làng xóm, dân cư nông thôn, phát triển làng xã, bổ sung hoàn thiện hệ thống hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật và cơ sở sản xuất; phát triển các trung tâm dịch vụ, hỗ trợ sản xuất; bảo vệ các không gian cảnh quan di tích tôn giáo tín ngưỡng; khắc phục triệt để các vấn đề gây ô nhiễm môi trường, tạo nên sự phát triển bền vững trong khu vực nông thôn.

Với chủ trương đúng đắn đó, Huyện ủy Ba Vì chú trọng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo một số nội dung công việc cơ bản sau:

 Thứ nhất, lãnh đạo, chỉ đạo sát sao, cụ thể, gắn với thực tiễn và phù hợp với hoàn cảnh của địa phương.

Trên cơ sở các Nghị quyết của Trung ương, của Thành ủy Hà Nội về công tác xây dựng NTM, và căn cứ vào thực tiễn của huyện, Huyện ủy đã kịp thời ban hành Nghị quyết 03-NQ/HU ngày 28-8-2010 về lãnh đạo xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2015, định hướng đến 2030; Chương trình số 02-CTr/HU ngày 12-12-2011 về phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, từng bước nâng cao đời sống nông dân giai đoạn 2011-2015; Nghị quyết số 19-NQ/HU ngày 25-6-2012 về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác dồn điền, đổi thửa đất sản xuất nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới đến năm 2015 và những năm tiếp theo;...

Để chủ trương của Huyện ủy đi vào cuộc sống có hiệu quả, Huyện ủy tập trung chỉ đạo các cấp uỷ, chính quyền trên địa bàn huyện xây dựng Nghị quyết, kế hoạch công tác hàng năm để triển khai thực hiện; lập đề án, quy hoạch xây dựng NTM, kế hoạch dồn điền đổi thửa, chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp phù hợp với điều kiện trên từng địa bàn. Từ đó, lựa chọn các nội dung, tiêu chí phù hợp để triển khai thực hiện.

Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện, Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy đã ban hành tổng cộng 29 văn bản về lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng NTM, dồn điền đổi thửa trên địa bàn huyện. Đồng thời, lãnh đạo HĐND, UBND huyện huyện ban hành 27 văn bản chỉ đạo, 7 quyết định để tổ chức thực hiện công tác xây dựng NTM.

Qua bốn năm triển khai Chương trình xây dựng NTM, được thực tiễn kiểm nghiệm, các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, các chương trình hành động, kế hoạch công tác của Huyện ủy đều đáp ứng đầy đủ các yếu tố: Kịp thời; sát với thực tiễn địa phương; phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, nhất là nông dân; từng bước phát huy hiệu quả rõ rệt trong đời sống xã hội. Tất cả những yếu tố đó đã tác động mạnh mẽ trong quá trình xây dựng NTM ở từng thôn, xóm, cụm dân cư, thúc đẩy phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, năng suất, chất lượng và hiệu quả. Phong trào dồn điền, đổi thửa được nông dân hưởng ứng mạnh mẽ, dần dần loại bỏ cung cách, lề lối làm ăn cũ, nhỏ lẻ, manh mún.

Thứ hai là, công tác quán triệt, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng và các cấp ủy; tuyên truyền các mô hình NTM được quan tâm thiết thực.

Bằng nhiều cách thức tổ chức khác nhau trên tinh thần linh hoạt, thiết thực gắn với thực tiễn, phù hợp với năng lực, điều kiện của từng địa bàn, cơ sở. Rút kinh nghiệm cách làm theo kiểu đại trà trước đây, Ban Thường vụ Huyện ủy giao cho Bí thư cấp ủy sau khi được quán triệt, học tập ở huyện, tiếp tục nghiên cứu tìm ra những điểm mấu chốt cần triển khai thực hiện ở địa phương. Trên cơ sở đó ban hành chủ chương, chương trình hành động gắn với thực tiễn và nhu cầu, nguyện vọng của bà con nông dân. Tránh các chương trình tràn lan, xa rời thực tiễn và kẽ hở để các nhóm lợi ích lợi dụng làm sai, làm trái. Từ đó, phân công các ủy viên tổ chức quán triệt trong cán bộ, đảng viên, trong các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhân dân cùng chung tay, chung sức thực hiện. Đồng thời, tăng cường công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tin tưởng, đồng thuận với chủ trương của Đảng và các cấp ủy về vai trò, tầm quan trọng và ý nghĩa của công cuộc xây dựng NTM. Từ đó, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tạo sự đồng thuận trong nhân dân tham gia tích cực Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM.

Ban chỉ đạo Chương trình thường xuyên tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức các hoạt động thông tin, tuyên truyền. Với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, trên các phương tiện thông tin đại chúng, pa nô, áp phích, tờ rơi; giao lưu văn hóa, học hỏi giữa các đơn vị; tham quan các mô hình thực tế; xây dựng chuyên đề về phong trào và kết quả sản xuất nông nghiệp, xây dựng NTM; về dồn điền đổi thửa ở các xã, thị trấn và các thôn, xóm; đưa chuyên đề xây dựng NTM vào nội dung sinh hoạt hàng tháng của các tổ chức cơ sở đảng và tổ chức đảng dưới cơ sở; của các tổ chức chính trị - xã hội và sinh hoạt thôn, xóm; phát động phong trào học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với các nhiệm vụ, mục tiêu, tiêu chí xây dựng NTM; gắn phong trào“Toàn dân xây dựng nếp sống văn hóa khu dân cư” với phong trào “Toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới”. Từ thực tiễn lao động sản xuất, xây dựng NTM, đã nảy nở nhiều hình thức phong phú, sáng tạo trong công tác tuyên truyền gắn với những việc làm thiết thực như hiến đất, ủng hộ tiền và ngày công lao động góp sức xây dựng NTM của bà con nông dân và cán bộ công nhân viên chức cho khu dân cư.

Đồng thời, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng NTM, Huyện ủy Ba Vì đặc biệt chú trọng đến việc tuyên truyền, nhân rộng các mô hình, cá nhân điển hình tiên tiến, tổ chức các đoàn đi thăm quan, học tập kinh nghiệm. Qua 4 năm tổ chức và triển khai thực hiện, đã có rất nhiều mô hình, cá nhân điển hình tiên tiến trong công tác xây dựng NTM được tuyên dương khen thưởng, như: Trang trại chăn nuôi bò sữa gia đình ông Khanh ở Phú Châu, với 25 con bò sữa, hàng năm cho thu nhập từ 1-1,2 tỷ đồng; mô hình nuôi trồng thủy sản HTX thủy sản Đồng Tâm với 2,5 ha đem lại thu nhập gần 1,0 tỷ đồng...

Thứ ba là, thường xuyên chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đủ năng lực, phẩm chất, tâm huyết đáp ứng các nhiệm vụ đề ra.

Sau khi có Hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tại Quyết định số 1003/QĐ-BNN-KTHT, ngày 18-5-2011 về phê duyệt Chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ xây dựng nông thôn mới, Huyện ủy đã phối hợp với HĐND, UBND huyện và các phòng, ban, ngành, đoàn thể tổ chức nhiều hình thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ như cử đi học ngắn và dài hạn, các lớp bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn, lý luận chính trị, quản lý hành chính. Huyện đã tổ chức trong toàn huyện hơn 100 hội nghị chuyên đề, tổ chức trên 70 lớp tập huấn về công tác xây dựng NTM; dồn điền đổi thửa; chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi với trên 5.000 lượt người tham gia. Điều được đánh giá cao là việc đào tạo, bồi dưỡng luôn được chú trọng khâu chất lượng gắn với thực tiễn của cơ sở, tránh hình thức, chiếu lệ, lãng phí thời gian và công sức của người học. Thông qua quá trình bồi dưỡng, đào tạo, tập huấn không chỉ các yêu cầu về cung cấp kỹ năng tổ chức sản xuất, kinh doanh được đáp ứng, mà nhiều yêu cầu khác không kém phần quan trọng như giải đáp các thắc mắc của người dân về một số vấn đề lý luận còn xa rời thực tiễn, những quan điểm trong chủ trương xây dựng NTM, nhất là trong Bộ tiêu chí xây dựng NTM của Ban Chỉ đạo quốc gia có nhiều tiêu chí không phù hợp đối với địa phương từng bước được làm rõ. 

Thứ tư là, chú trọng lập đồ án quy hoạch, đề án xây dựng NTM và kết quả thực hiện đề án.

Căn cứ Thông tư số 09/2010/TT-BXD ngày 04-08-2010 của Bộ Xây dựng; Thông tư liên tịch số 13/2011/TTLT-BXD-BNNPTNT-BTNMT ngày 28-10-2011, Huyện ủy Ba Vì đã lãnh đạo triển khai hướng dẫn lập và phê duyệt đồ án quy hoạch chung xây dựng NTM của 30 xã và quy hoạch chi tiết khu trung tâm của 29/30 xã đảm bảo tiến độ, đúng quy định và phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương. Ban hành quy định quản lý quy hoạch, công bố, công khai quy hoạch và tổ chức thực hiện theo quy hoạch đã được phê duyệt. Được sự chỉ đạo và điều hành chặt chẽ của UBND huyện, công tác lập quy hoạch, phê duyệt Đề án xây dựng NTM của huyện và các xã được thực hiện đúng tiến độ và đảm bảo các yêu cầu đặt ra, đặc biệt là đối với đề án ở các xã điểm như xã Cổ Đô đã được UBND Thành phố phê duyệt.

Thứ năm là, công tác kiểm tra, giám sát được thường xuyên tăng cường và đi vào các nội dung cụ thể; các vấn đề nổi cộm được phát hiện trong quá trình kiểm tra, giám sát được xử lý kịp thời, dứt điểm, tạo niềm tin trong nhân dân.

Xác định đúng vai trò và tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát, Huyện uỷ Ba Vì chủ trương tập trung làm tốt đối với các tổ chức, cá nhân trực tiếp tham gia các đề án, các nhiệm vụ trong Chương trình xây dựng NTM. Hàng năm, Huyện uỷ xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát công tác chỉ đạo của Huyện uỷ và kiểm tra hoạt động của Uỷ ban Kiểm tra Huyện uỷ: ban hành nhiều quyết định thành lập đoàn, tổ kiểm tra, giám sát việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chương trình xây dựng NTM; đồng thời chỉ đạo các xã thực hiện tốt chương trình kiểm tra, giám sát ở cơ sở. Nội dung kiểm tra, giám sát nhằm tổ chức thực hiện, tháo gỡ khó khăn từ cơ sở, hoặc tiếp thu những kiến nghị từ cơ sở để nghiên cứu, bổ sung cơ chế chính sách. Kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm chú trọng vào các lĩnh vực gắn với kinh tế, tránh các tình trạng gây khó khăn cho các đơn vị thực hiện tiến độ đề ra. Trong kiểm tra, giám sát, các đơn vị đã phát hiện nhiều điểm vướng mắc, tồn tại, bất cập, đặc biệt là những vướng mắc về chính sách, cán bộ và phương thức lãnh đạo. Từ đó, đề xuất và kiến nghị để Huyện ủy kịp thời bổ sung, sửa đổi các chủ trương, chính sách phù hợp với thực tiễn hơn.

Thứ sáu, lãnh đạo thực hiện các chương trình, mục tiêu xây dựng NTM.

Tính đến 31-3-2015, 100% các xã trong huyện đã được phê duyệt đồ án Quy hoạch, Đề án xây dựng NTM. Có ba xã: Cổ Đô, Tản Hồng, Thuần Mỹ đạt tiêu chí NTM, được UBND thành phố Hà Nội công nhận; 10 xã: Phong Vân, Châu Sơn, Phú Phương, Phú Châu, Đồng Thái, Vạn Thắng, Cẩm Lĩnh, Thái Hòa, Phú Sơn và Vật Lại giai đoạn I đạt và cơ bản đạt từ 13-16 tiêu chí (tăng thêm 8-11 tiêu chí); 17 xã còn lại đạt từ 9-13 tiêu chí (tăng thêm 6-10 tiêu chí). Nhiều hạng mục công trình được triển khai có hiệu quả. Đặc biệt, hệ thống thủy lợi được triển khai khá tốt, xây mới, nâng cấp 30 trạm bơm tưới, tiêu (đạt 44,11%) và tăng thêm 6 trạm so với năm 2011; cứng hóa kênh nội đồng được 241 km, đạt 25%; hàng năm triển khai cải tạo, nạo vét 53.000 m3 đào đắp; cải tạo, sữa chữa, nâng cấp 24 hồ nhỏ phục vụ sản xuất nông nghiệp... Hệ thống giao thông được hoàn thiện bằng nhựa và bê tông, lát gạch đến các thôn, xóm. Các phương tiện, máy móc như máy cấy, gặt đập, xay sát, chế biến nông sản, thực phẩm phục vụ sản xuất ngày càng được tăng cường, giải phóng cơ bản sức lao động của người dân. Bộ mặt nông thôn ngày càng được thay da đổi thịt. Nền kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng và ngày càng hướng vào chất lượng, hiệu quả, phát triển bền vững. Năm 2014, tăng trưởng kinh tế đạt 12,1%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực: nhóm ngành dịch vụ - du lịch chiếm 52%; nông, lâm nghiệp chiếm 33% (trong đó trồng trọt chiếm 48,5%, chăn nuôi chiếm 51,5% cơ cấu nội bộ ngành); công nghiệp - xây dựng chiếm 15% (so với đầu kỳ thực hiện chương trình xây dựng NTM: nông, lâm nghiệp chiếm 40% trong cơ cấu GDP; công nghiệp-xây dựng cơ bản chiếm 17%; dịch vụ, du lịch chiếm 43%); cơ cấu giống cây trồng vật nuôi được chú trọng chuyển đổi theo hướng vừa quan tâm tới năng xuất và chất lượng vừa phù hợp với điều kiện của từng vùng sản xuất và thị hiếu, nhu cầu của người tiêu dùng. Hiệu quả kinh tế thu được trên một đơn vị sản xuất ngày càng tăng lên và rất đáng khích lệ, khoảng 50-70 triệu đồng/ha. Thu nhập bình quần đầu người năm 2014 đạt 31 triệu đồng (tăng 16 triệu đồng so với năm 2010), trong đó thu nhập bình quân khu vực nông thôn đạt 24,3 triệu đồng; tỷ lệ hộ nghèo năm 2012 là 9,78%, đến năm 2014 giảm còn 6,02%. Giáo dục - đào tạo tiếp tục phát triển, quy mô trường lớp học ổn định và có sự phát triển đa dạng ở cả hai loại hình công lập và ngoài công lập; 100% cán bộ quản lý, giáo viên có trình độ đạt chuẩn trở lên, tỷ lệ phòng học kiên cố chiếm 81,1%; 32 trường công lập đạt chuẩn quốc gia (đạt tỷ lệ 29,4%). Công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân được triển khai thực hiện có hiệu quả, 100% các xã có trạm y tế đảm bảo công tác khám chữa bệnh ban đầu cho người dân, trong đó có 28/30 (90,3%) số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế theo chuẩn mới tại Quyết định số 3447/QĐ-BYT ngày 22/9/2011; nhiều công trình cấp nước sạch sinh hoạt nông thôn được xây mới, cải tạo sửa chữa, nâng cấp ngày càng hoàn thiện, phục vụ tốt cho đời sống, sinh hoạt, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân; tỷ lệ người dân được dùng nước hợp vệ sinh đạt 99% (trong đó tỷ lệ dân dùng nước sạch 38%), trên 60% gia đình có nhà vệ sinh hợp vệ sinh; tỷ lệ chất thải, nước thải được thu gom và xử lý 85%. Phong trào xây dựng nếp sống văn hóa ngày càng có hiệu quả, các thôn làng đều có các nội quy quy ước phù hợp với pháp luật; đời sống văn hóa, chính trị của người dân ngày càng được nâng cao. Các chế độ chính sách xã hội, an sinh xã hội trên địa bàn được đảm bảo; các Chương trình mục tiêu Quốc gia về giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo và đào tạo nghề được triển khai có hiệu quả (năm 2014 đã mở được 105 lớp với 3.675 học viên, số lao động có việc làm mới là 3.650 người). Các tổ chức đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị trên địa bàn nông thôn được sắp xếp, củng cố, kiện toàn đồng bộ, hoạt động dần đi vào nề nếp, năm 2014 không có tổ chức đảng và các chi hội đoàn thể yếu kém; đội ngũ cấp ủy, cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở được tăng cường, đảm bảo đủ số lượng, chất lượng, 100% cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã có trình độ trung cấp trở lên về chuyên môn, lý luận chính trị. An ninh chính trị và trật tự xã hội luôn được đảm bảo, tạo tư tưởng yên tâm cho nhân dân trên địa bàn huyện, nhất là ở khu vực nông thôn.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác lãnh đạo xây dựng nông thôn mới của Huyện ủy Ba Vì những năm qua cũng đã bộc lộ những khuyết điểm, hạn chế.

Một là, Một số cấp ủy đảng, chính quyền địa phương chưa thật sự quyết liệt triển khai thực hiện công tác xây dựng NTM và chưa xây dựng kế hoạch chi tiết để thực hiện các tiêu chí theo lộ trình, khả năng của địa phương. Vòi thế một số xã chưa đạt được các tiêu chí như kế hoạch đề ra. Một số xã chưa đạt được các tiêu chí như kế hoạch đề ra.

Hai là, một bộ phận nhân dân chưa nhận thức rõ ý nghĩa, tác dụng của xây dựng NTM. Vì vậy, chưa thấy hết trách nhiệm của mình, còn coi đó là trách nhiệm của các cơ quan lãnh đạo, quản lý nên chưa tham gia tích cực vào công tác xây dựng NTM. Tâm lý trông chờ, ỷ lại vào đầu tư của nhà nước vẫn còn.

Ba là, việc đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo xây dựng NTM diễn ra còn chậm, chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn đặt ra.

Bốn là, đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cơ sở trình độ, năng lực, kinh nghiệm làm công tác xây dựng NTM còn hạn chế, nên công tác triển khai và tổ chức thực hiện còn biểu hiện lúng túng. Hầu hết cán bộ tham gia vào công tác lãnh đạo, quản lý xây dựng NTM đều là kiêm nhiệm, công việc chuyên môn ngành, lĩnh vực chiếm phần lớn thời gian nên chưa dành được nhiều thời gian, công sức, trí tuệ cho lĩnh vực này.

Từ thực tiễn nêu trên, có thể rút ra một số kinh nghiệm:

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trò của xây dựng NTM thông qua việc nâng cao chất lượng quán triệt và thực hiện nghị quyết, chương trình, kế hoạch của Trung ương Đảng, Thành ủy Hà Nội, chất lượng ban hành nghị quyết, chương trình, kế hoạch của Huyện uỷ nhằm tạo ra chuyển biến sâu sắc, thống nhất trong nhận thức và hành động của hệ thống chính trị, tạo nên sự đồng thuận của nhân dân trong toàn huyện.

Hai là, thường xuyên coi trọng và tập trung mọi nỗ lực tạo bước chuyển biến quan trọng về đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Huyện ủy đối với lĩnh vực xây dựng NTM. Thực tiễn vốn rất sinh động và luôn thay đổi, công tác lãnh đạo phải theo sát sự thay đổi của thực tiễn, gắn kết với thực tiễn để có biện pháp và chủ trương thích hợp. Nếu không sẽ là giáo điều hoặc tả khuynh duy ý chí, hoặc quan liêu, mệnh lệnh.

Ba là, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ xây dựng NTM, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đội ngũ này phải có phẩm chất chính trị vững vàng, có trình độ, năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao, có trách nhiệm và kinh nghiệm hoạt động trên lĩnh vực xây dựng NTM.

Bốn là, tạo cơ chế phối hợp nhịp nhàng giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị và giữa các lực lượng làm công tác xây dựng NTM. Đảm bảo đoàn kết, không có sự chồng chéo về nội dung và phương thức trong các hoạt động xây dựng NTM.

Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc, sâu sát cơ sở; sơ kết, tổng kết thực tiễn để rút ra những bài học kinh nghiệm lãnh đạo của Huyện ủy đối với HĐND và UBND trong các hoạt động xây dựng nông thôn mới.

Với những kết quả đạt được và kinh nghiệm nêu trên, xin nêu một số đề xuất và kiến nghị:

- Trung ương Đảng tiếp tục đề ra đường lối lãnh đạo nhằm khuyến khích, hỗ trợ, thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn, tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa bốn nhà: nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nông, giúp cho các chương trình xây dựng NTM được phát triển bền vững.

- Thành ủy Hà Nội và Huyện ủy Ba Vì cần tiếp tục quan tâm, đầu tư nguồn kinh phí cho các xã hoàn thành công tác xây dựng NTM năm 2015 và lãnh đạo chính quyền đơn giản hóa thủ tục hành chính trong quá trình triển khai, thực hiện công tác xây dựng NTM.

- Cấp ủy và chính quyền cơ sở cần nêu cao tính chủ động, dám nghĩ dám làm, nhất là trong các hoạt động xã hội hóa thực hiện chương trình xây dựng NTM. Vừa tranh thủ sự ủng hộ của cấp trên, của các đơn vị, doanh nghiệp đóng trên địa bàn vừa tăng cường phát huy nội lực của nhân dân, kiên quyết từ bỏ thói trông chờ ỷ lại; lề thói làm ăn nhỏ lẻ, manh mún và tính cục bộ dòng họ, nhóm lợi ích trong quá trình xây dựng NTM./.

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất