Chủ Nhật, 13/10/2024
Kinh tế
Thứ Bảy, 24/4/2010 22:17'(GMT+7)

Khi người nông dân bước vào hội nhập

(Ảnh minh hoạ)

(Ảnh minh hoạ)

Hội nhập sẽ mở ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với tất cả các ngành, các lĩnh vực và buộc tư duy phải thay đổi để thích ứng, để cạnh tranh, để tồn tại. Sức ép đổi mới đang đè nặng lên tất cả các lĩnh vực nhưng có lẽ nặng nề hơn cả vẫn là với người nông dân Việt Nam.

Là đất nước đi lên từ nền nông nghiệp, mặc dù công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đang được đẩy mạnh nhưng hiện nay cư dân nông thôn Việt Nam vẫn chiếm đến khoảng 70%, và chiếm khoảng trên 60% lực lượng lao động của cả nước, khoảng trên 13 triệu hộ trong đó có 11 triệu hộ chuyên sản xuất nông nghiệp, nguồn lực tạo ra từ nông nghiệp chiếm 21% GDP. Trong khi đó, tiềm năng của thị trường nông sản thế giới là rất rộng lớn, bình quân kim ngạch khoảng trên 550 tỷ USD/năm, mở ra cơ hội xuất nhập khẩu cho tất cả các quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Lợi ích từ việc hội nhập đem đến cho người nông dân Việt Nam khi xuất khẩu hàng nông sản, thuỷ sản ra thế giới là sẽ chịu mức hàng rào thuế quan thấp nhất, nhiều hàng rào phi thuế quan sẽ được bãi bỏ. Người nông dân nước ta cũng sẽ được lợi từ việc tiếp cận, chuyển đổi các tiến bộ công nghệ, phương tiện sản xuất, chế biến hiện đại nhằm năng cao hiệu quả sản xuất. Sự cạnh tranh về giá cả, sự tiện dụng của các hàng công nghệ hiện đại phục vụ trong lĩnh vực nông nghiệp cũng sẽ được nhập khẩu nhiều vào Việt Nam, đem đến cho người nông dân sự lựa chọn tốt nhất.

Trong những năm gần đây, mức tăng trưởng xuất khẩu của nông nghiệp Việt Nam đã đạt mức 4,3% hàng năm, thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng, đặc biệt nhiều mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản của chúng ta đã tiếp cận và khẳng định được vị thế của mình tại một số thị trường khó tính như Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU... Hàng năm đóng góp vào tổng kim ngạch xuất khẩu của đất nước hàng tỷ USD và tạo thu nhập cho người nông dân, góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, tạo bộ mặt mới cho kinh tế địa phương.

Khi hội nhập sâu rộng vào kinh tế quốc tế, tham gia vào tất cả các tổ chức kinh tế, thương mại lớn của thế giới và khu vực cơ hội cũng sẽ càng mở ra nhiều đối với người nông dân Việt Nam. Người nông dân sẽ được tiếp cận thị trường nhiều hơn, nắm bắt được nhu cầu của khách hàng trên thế giới một cách nhanh nhạy và đầy đủ bằng các phương tiện truyền thông, công nghệ thông tin. Khi tham gia và thực hiện các cam kết của các tổ chức người nông dân cũng sẽ biết được từng lộ trình cắt giảm thuế xuất khẩu, khi nào mặt hàng nào có thuế bằng 0% để định hướng phát triển theo tinh thần cạnh tranh về chất lượng và giá cả. Việc đẩy mạnh xuất khẩu sẽ đem lại cơ hội đổi mới công nghệ sản xuất, chế biến nông sản, từ đó mà nâng cao được năng lực cạnh tranh của các sản phẩm. Dưới sức ép của luồng hàng nhập khẩu mạnh mẽ, các doanh nghiệp chế biến hàng nông, lâm, thủy sản buộc phải phấn đấu vươn lên để nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất, đảm bảo các quy chuẩn quốc tế và nước nhập khẩu đặt ra.

Giống như mọi thành phần xã hội khác, người nông dân cũng sẽ được tự do lựa chọn rất nhiều mặt hàng phong phú và có chất lượng cao của toàn thế giới. Hội nhập cũng thúc ép việc biến nông thôn thành “sân sau” của sản xuất công nghiệp và thương mại. Không thể tồn tại mãi tình trạng sản xuất nhỏ, manh mún và tác phong nông nghiệp vốn tồn tại từ lâu trong ý nghĩ của người nông dân. Do đó, người nông dân phải có sự nhạy bén trong sản xuất, canh tác, phải có sự liên kết liên minh Ba nhà, Bốn nhà với các doanh nghiêp, các nhà đầu tư, các nhà khoa học để đẩy mạnh việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và nông dân nước ta để tạo ra sức mạnh tổng hợp và phát triển bền vững.

Cơ hội mở ra đối với người nông dân khi đất nước bước vào hội nhập là rất lớn, nhưng thách thức cũng đặt ra không nhỏ. Đó là khả năng cạnh tranh khốc liệt của các hàng mặt nông sản trong nước với hàng ngoại nhập có chất lượng cao, được sản xuất trên công nghệ hiện đại, có kiểu dáng, mẫu mã sang trọng. Người nông dân cũng bắt đầu phải làm quen và thực thi triệt để quyền sở hữu trí tuệ, sẽ phải đăng ký thường hiệu, nhãn hiệu sản phẩm, sẽ phải mua giống, vật tư, tư liệu sản xuất nông nghiệp do đó làm tăng chi phí sản xuất. Trong khi đó, tại các nước giàu, có nền khoa học hiện đại vẫn tiếp tục duy trì trợ cấp và đưa ra các rào cản đối với thị trường nông sản khiến ngành nông nghiệp khó có thể sử dụng các biện pháp tự vệ đặc biệt để đối phó.

Kinh tế nông thôn nước ta phần lớn còn phát triển theo hướng tự phát, thiếu quy hoạch, rất bị động trong việc tiêu thụ sản phẩm. Các ngành nghề phi nông nghiệp sản xuất thiếu ổn định do thiếu vốn, thiếu nguyên liệu và sử dụng công nghệ lạc hậu. Nhìn vào danh mục 94 dự án trọng điểm quốc gia mời gọi vốn FDI trong giai đoạn 2006-2010 (gần 26 tỷ USD) ta thấy rất rõ sự mất cân đối giữa khu vực công nghiệp - xây dựng với khu vực nông nghiệp - nông thôn. Trong danh mục này chỉ có 1 dự án dành cho nông nghiệp - chăn nuôi - lâm nghiệp và 4 dự án dành cho thủy sản. Do đặc thù của sản xuất nông nghiệp - nông thôn phụ thuộc nhiều vào nhiên nhiên, thường gặp nhiều rủi ro do chịu ảnh hưởng của thời tiết, thiên tai và thiếu đảm bảo về điều kiện hạ tầng... nhiều khi người nông dân mất trắng do những rủi ro. Hơn nữa hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách trong lĩnh vực này còn nhiều bất cập và chưa hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Sự chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn còn rất lớn. Chính sách nông nghiệp của ta trước đây là lo đủ ăn và cố gắng có dư thừa để xuất khẩu. Ngay này tư duy đó phải thay đổi, phải hướng sang giai đoạn phát triển có hiệu quả cao và bền vững, hướng đến xuất khẩu. Vì vậy, phải hướng dẫn nông dân tiếp cận được các thông tin về thị trường, đàm phán thương mại, kiểm tra chất lượng và đăng ký thương hiệu nông sản... Kế hoạch phát triển nông nghiệp phải hướng tới ba lĩnh vực chủ yếu là: chuyển giao tiến bộ khoa học - công nghệ, nhất là các thành tựu về Công nghệ sinh học; tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho kinh tế nông thôn; tập trung xây dựng các cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp và nông thôn. Chúng ta phải phấn đấu đưa chất lượng, giá cả các sản phẩm nông sản xuất khẩu của đất nước lên ngang bằng với các nước trên thế giới.

Một thực tế đặt ra là, hiện nay các giống lúa của nước ta được mặt này thì hỏng mặt kia, giống lúa cao sản thì dễ đổ, chất lượng gạo ngon thì lép nhiều và kháng bệnh kém. Nông dân không mặn mà với giống mới vì phải mua với giá cao trong khi vẫn bán ra theo giá bình thường. Mặt khác, theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, sự thất thoát sau thu hoạch về lúa của nước ta là rất lớn thường là 10-17%, có nơi còn cao hơn. Vì thiếu sân phơi nên gạo phải sấy sau khi xát và dẫn đến gãy nát, xỉn màu... điều đó ảnh hưởng đến chất lượng, giá cả sản phẩm. Công nghệ sau thu hoạch của ta còn rất bất cập, trong khi cam Mỹ, quýt Thái Lan... xuất khẩu sang Việt Nam sau cả tháng vẫn tươi nguyên, giá bán lại cạnh tranh ngay với các sản phẩm cùng loại trong nước.

Chúng ta chưa sản xuất được sản phẩm nông nghiệp chuẩn mực như nhiều nước khác vì chưa có nền sản xuất lớn, chưa sản xuất tập trung, chưa có các quy trình kỹ thuật chuẩn, chưa kết nối được giữa sản xuất và tiêu thụ... Cho đến nay, khoảng gần 90% sản phẩm nông nghiệp còn được bán ra ở dạng thô và khoảng 60% sản phẩm bị bán ép với giá thấp, tình trạng sản xuất rất manh mún, nhỏ bé, một hộ sản xuất nông nghiệp có đến vài chục thửa ruộng vẫn còn diễn ra trên hầu khắp cả nước. Bên cạnh đó, người nông dân được tiếp cận với thông tin thị trường, khoa học kỹ thuật hiện đại v ẫn còn thấp. Theo điều tra của Bộ NN&PTNT thì chỉ có khoảng 25% nông dân tiếp cận được với các thông tin thị trường trong khi 75% nông dân không biết gì cả; Các nguồn thông tin từ internet đến với người nông dân chiếm tỷ lệ không đáng kể. Hiện nay, cả nước đã có khoảng trên 8000 điểm bưu điện văn hóa xã nhưng chỉ có khoảng gần 1/2 số đó 4000 điểm có thể kết nối Internet, sách báo tại các điểm bưu điện này còn thiếu thốn. Đã đến lúc chúng ta phải “mạnh tay” hơn nữa cho việc đầu tư phát triển nông nghiệp - nông thôn, nâng cao nhận thức và đưa khoa học kỹ thuật hiện đại về với người nông dân, hướng tới thị trường xuất khẩu, năng xuất chất lượng cao chung ta phải tạo ra các khu chuyên canh rộng lớn không nên để tình trạng sản xuất nhỏ lẻ manh mún như hiện nay. Nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng của những sản phẩm nông nghiệp hiện có, phát triển sản phẩm nông nghiệp mới. Đồng thời, phát triển những xí nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa phục vụ những yêu cầu của địa phương, phục vụ phát triển công nghiệp cả nước nói chung, khuyến khích trực tiếp tham gia xuất khẩu./.

Thanh Ngọc - Quỳnh Chi

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất