Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và thực tiễn xây dựng, hoạt động của Đảng hơn 80 năm qua đã khẳng định: Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ bảo đảm cho Đảng Cộng sản Việt Nam thống nhất ý chí và hành động, giữ vững kỷ luật. Thực tiễn cho thấy, ở đâu và nơi nào, lúc nào bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ được nhận thức đầy đủ, mối quan hệ tập trung - dân chủ được giải quyết đúng đắn thì nơi đó nguyên tắc tập trung dân chủ được giữ vững, dân chủ được mở rộng, tập trung thống nhất tốt, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức Đảng được nâng cao. Vì vậy, nhận thức đúng đắn, đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ là cơ sở cho quán triệt, vận dụng phù hợp với đặc điểm nhiệm vụ để các tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ và đấu tranh chống các quan điểm sai trái hiện nay.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức căn bản của Đảng để xây dựng Đảng ta thành một Đảng kiểu mới vững mạnh. Mục đích của nguyên tắc mhằm thống nhất ý chí và hành động trong Đảng, làm cho toàn Đảng kết thành một khối duy nhất, nội bộ luôn luôn đoàn kết chặt chẽ, có kỷ luật nghiêm minh, có sức mạnh chiến đấu vô địch; Phát huy trí tuệ, năng lực và tính tích cực, chủ động, sáng tạo của đông đảo đảng viên, làm cho mọi đảng viên có thể đóng góp được nhiều ý kiến, kinh nghiệm vào việc quyết định đường lối, chủ trương và nhiệm vụ của Đảng được đầy đủ, chính xác, phù hợp với thực tiễn.
Tập trung dân chủ là một nguyên tắc hoàn chỉnh, một thể thống nhất của hai mặt tập trung và dân chủ. Hai mặt đó có mối quan hệ mật thiết với nhau, khồng đối lập nhau, không tách rời nhau. Tập trung trên cơ sở dân chủ và dân chủ dưới sự lãnh đạo tập trung.
Tập trung trên cơ sở dân chủ, điều này làm cho tập trung khác biệt về bản chất so với chuyên chế, chuyên quyền. Nội dung của nguyên tắc chỉ rõ: Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Đó là tập trung. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Nghị quyết là sự tập trung cao trí tuệ, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên. Để có sự chấp hành nghị quyết một cách nghiêm chỉnh, vô điều kiện, thì điều kiện tiên quyết là nghị quyết đó phải được xây dựng trên cơ sở dân chủ. Các cơ quan lãnh đạo của Đảng có thẩm quyền ra chỉ thị, nghị quyết cho cấp dưới thực hiện, kiểm tra, đôn đốc mọi hoạt động và tiến hành khen thưởng, kỷ luật cấp dưới. Nhưng các cơ quan đó đều do dân chủ bầu cử mà lập ra, là đại biểu cho trí tuệ, sức mạnh của tập thể đảng viên. Vì vậy, nguyên tắc tập trung dân chủ yêu cầu: các cơ quan lãnh đạo của Đảng phải báo cáo và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình trước tổ chức Đảng; gương mẫu tự phê bình và tiếp thu phê bình của cấp dưới, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Tập trung trên cơ sở dân chủ hoàn toàn khác về bản chất với tập trung quan liêu, chuyên quyền độc đoán. Dân chủ của Đảng Cộng sản không đối lập với tập trung, không tách rời tập trung. Dân chủ để phát huy cao trí tuệ đại đa số đảng viên, làm cơ sở cho tập trung. Dân chủ càng mở rộng thì tập trung càng cao.
Dân chủ trong Đảng thực chất là quyền làm chủ của toàn thể đảng viên. Lênin đã khẳng định: “Toàn bộ tổ chức của Đảng hiện nay được xây dựng một cách dân chủ, có nghĩa là toàn thể đảng viên bầu ra những người lãnh đạo, những ủy viên các Ban Chấp hành, rằng toàn thể đảng viên thảo luận và quyết định vấn đề vận động chính trị của giai cấp vô sản, rằng toàn thể đảng viên xác định phương hướng sách lược của các tổ chức đảng”.
Dân chủ là cơ sở của tập trung, đồng thời dân chủ phải có sự lãnh đạo của tập trung, dân chủ phải có lãnh đạo. Mọi hoạt động lãnh đạo của Đảng phải theo nguyên tắc “tập thể lãnh đạo” đi đôi với “cá nhân phụ trách”. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Tập thể lãnh đạo là dân chủ; Cá nhân phụ trách là tập trung; Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là dân chủ tập trung”.
Tập trung là tập trung trên cơ sở dân chủ. Đường lối, chủ trương, điều lệ, quy chế, các cơ quan lãnh đạo đều do dân chủ bàn bạc mà quyết định xây dựng nên, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của toàn thể đảng viên. Do vậy, các chỉ thị, nghị quyết, quy chế điều lệ, các cơ quan lãnh đạo đều yêu cầu sự tuân thủ không điều kiện của đảng viên. Đường lối, chủ trương, chỉ thị, nghị quyết, điều lệ, quy chế được thực thi nghiêm túc; các cơ quan lãnh đạo có thẩm quyền được các tổ chức và cá nhân có trách nhiệm chấp hành triệt để. Đó là đòi hỏi của tập trung. Thực hiện chế độ tập trung là con đường để dân chủ được thực hiện triệt để, dân chủ có hiệu lực trên thực tế, chứ không phải dân chủ hình thức.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc vô cùng quan trọng đảm bảo sự sống còn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do vậy, các thế lực thù địch đã chống phá quyết liệt bằng những quan điểm sai trái về bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Về phương diện lý luận, đã có nhiều quan điểm hiểu không đúng hoặc cố tình xuyên tạc nội dung và bản chất của nguyên tắc này, thực chất là muốn xoá bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ, làm suy yếu Đảng, xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Lẽ dĩ nhiên, những quan điểm này không trực diện đòi xoá bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ mà núp dưới cái phương pháp “phân tích bản chất của nguyên tắc”, bằng lập luận lập lờ, lái nhận thức của mọi người đi đến chỗ từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ. Các quan điểm sai trái khái quát như sau:
Quan điểm thứ nhất, cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ mà Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện chỉ là cái bình phong để mị dân còn bản chất là chuyên quyền độc đoán.
Chúng lý giải: Tập trung và dân chủ thì luôn có xu hướng đối lập, triệt tiêu nhau. Nếu thực hiện tập trung sẽ tất yếu dẫn đến thu hẹp dân chủ, triệt tiêu dân chủ; ngược lại nếu muốn thực hiện dân chủ thì phải từ bỏ tập trung. Từ lập luận đó, chúng cho rằng, tập trung quan liêu và dân chủ vô chính phủ là bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ, là vấn đề thuộc về bản chất của Đảng Cộng sản. Với cách lập luận không có cơ sở khoa học, chúng không hiểu gì về bản chất nguyên tắc tập trung dân chủ.
Quan điểm thứ hai, cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ chỉ đúng trên lý thuyết, chứ trong thực tế không được thực hiện được, càng thực hiện thì hiện tượng chuyên quyền độc đoán trong bộ máy lãnh đạo càng nhiều.
Quan điểm này đã bám lấy những hiện tượng vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong thực tế, có những trường hợp vi phạm nghiêm trọng gây ra hậu quả tai hại, để dẫn đến phủ nhận nguyên tắc này. Họ đã lẫn lộn giữa những hiện tượng vi phạm nguyên tắc với bản chất của nguyên tắc.
Quan điểm thứ ba, cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ chỉ thực hiện có hiệu quả trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân còn trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa thì không phù hợp.
Chúng lập luận, trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh cần có kỷ luật chặt chẽ, tập trung, thống nhất cao độ, còn trong hoàn cảnh hòa bình xây dựng, kẻ thù không còn, nhân dân đã làm chủ, cần gì phải thực hiện chế độ tập trung, kỷ luật và chuyên chính. Lúc này mà còn thực hiện tập trung dân chủ là không phù hợp, là vi phạm dân chủ. Đây là một quan điểm hoàn toàn sai trái, là xuyên tạc nguyên tắc tập trung dân chủ từ bản chất. Tập trung dân chủ là thuộc tính bản chất của giai cấp công nhân; tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ là vấn đề thuộc về bản chất của Đảng Cộng sản. Nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ nhằm tạo ra kỷ luật thống nhất, mà còn phát huy mọi sáng kiến, sáng tạo, khai thác mọi trí tuệ của đảng viên, của cơ sở. Do vậy, trong điều kiện nào cũng phải phát huy cao độ dân chủ, phải có sự lãnh đạo tập trung thống nhất.
Tất cả những quan điểm sai trái nêu trên đều nhằm đi tới xoá bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ. Chính vì vậy, chúng ta phải nhìn sâu vào bản chất của những luận điệu chống phá này, mà cảnh giác với những âm mưu, thủ đoạn, những khuynh hướng tự phát, tự do vô chính phủ, chia rẽ, phá hoại Đảng, trong nội bộ Đảng, trong nước và ngoài nước.
Tuy nhiên, để bảo vệ nguyên tắc tập trung dân chủ, bác bỏ những luận điệu, những âm mưu sai trái nêu trên của các thế lực thù địch, chúng ta cũng cần nhìn thẳng vào sự thật những khuyết điểm trong quá trình thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong quá trình thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, một số cán bộ, đảng viên nhận thức chưa đầy đủ, khi thực hiện dẫn đến quan liêu, vi phạm dân chủ. “Nhiều tổ chức cơ sở đảng thiếu sức chiến đấu và không đủ năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh”.
Để khắc phục những thiếu sót trên, nâng cao chất lượng thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu trong Đảng, cần thực hiện các giải pháp sau đây:
Một là: Quán triệt cho cán bộ, đảng viên nhận thức đầy đủ và thống nhất về nguyên tắc tập trung dân chủ
Đây là giải pháp rất quan trọng giúp cho cán bộ, đảng viên nâng cao trình độ vận dụng và tổ chức thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
Khi quán triệt phải kết hợp giữa việc tổ chức bồi dưỡng của cấp ủy với việc động viên, khích lệ tự học tập, tự bồi dưỡng của từng đảng viên, làm cho mọi cấp ủy viên, mọi đảng viên nắm vững vị trí ý nghĩa tầm quan trọng, bản chất, nội dung cụ thể của nguyên tắc; có ý thức tôn trọng, tự giác, chủ động, kiên quyết đấu tranh bảo vệ và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Cần chú ý làm rõ yêu cầu đảm bảo mối quan hệ biện chứng giữa tập trung và dân chủ trong quá trình thực hiện nguyên tắc. Phê phán, khắc phục những khuynh hướng lệch lạc, tách rời, nhấn mạnh một chiều tập trung hoặc dân chủ và những hành động làm biến dạng nguyên tắc. Tích cực bồi dưỡng cách thức tổ chức, quy trình thủ tục và kinh nghiệm thực hiện từng nội dung cụ thể của nguyên tắc cho các cấp ủy viên. Đồng thời cần thống nhất trong từng tổ chức Đảng về phương pháp, cách thức thảo luận, phê bình, cách làm việc, xử lý công việc, xử lý các mối quan hệ theo đúng nội dung và yêu cầu của nguyên tắc tập trung dân chủ. Quá trình quán triệt, giáo dục phải gắn với việc liên hệ, kiểm điểm về nhận thức và thực hiện nguyên tắc này của từng cấp ủy đảng, từng tổ chức đảng, từng cán bộ và đảng viên. Cần kiểm điểm chỉ rõ kết quả, thành tựu và những hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân; xác định những biện pháp để khắc phục những hạn chế, khuyết điểm của tổ chức đảng và đảng viên. Đối với những trường hợp vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, phải xử lý nghiêm, kịp thời chấn chỉnh tổ chức, kiện toàn cán bộ lãnh đạo.
Hai là: Cụ thể hóa nội dung, yêu cầu của nguyên tắc tập trung dân chủ thành chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn và các mối quan hệ công tác, chế độ công tác, của từng cán bộ, đảng viên, từng cấp ủy, tổ chức đảng, thể hiện rõ trong các quy chế, quy định.
Cần đặc biệt coi trọng nâng cao tính khoa học, tính cụ thể, tính pháp lý trong quy chế làm việc của các cấp ủy. Việc soạn thảo và ban hành quy chế làm việc là một việc làm nghiêm túc, quan trọng, không được qua loa, sơ sài, hình thức. Quy chế đầy đủ, khoa học, chặt chẽ, cụ thể, thì tính khả thi cao, là cơ sở để thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, là căn cứ để đánh giá, nhận xét, kiểm điểm, giúp cho quá trình hoạt động lãnh đạo và xây dựng các tổ chức đảng có chất lượng tốt; ngược lại, quy chế chung chung, hình thức chiếu lệ, đối phó, sẽ thiếu căn cứ thực hiện, tạo điều kiện cho những biểu hiện quan liêu, gia trưởng hoặc dân chủ vô nguyên tắc xảy ra. Xây dựng và ban hành các quy định nhằm cụ thể hóa nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, xác định rõ chế độ chức trách của lãnh đạo với chỉ huy các cấp. Có quy định cụ thể hóa về chế độ: thiểu số phục tùng đa số. Có kế hoạch chương trình cụ thể để tăng cường công tác kiểm tra của cấp trên với cấp dưới. Thực hiện nghiêm túc chế độ bảo lưu, nghiên cứu các ý kiến, khiếu nại của đảng viên. Hoàn thiện các quy chế công tác cán bộ. Xây dựng thành chế độ cán bộ đi cơ sở, bám sát cơ sở, chỉ đạo tại chỗ, chống quan liêu. Tất cả các quy chế, quy định phải đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ. Các điều khoản trong quy chế phải được nghiên cứu cụ thể, tỷ mỉ; tính toán, cân nhắc nhiều mặt; được thảo luận kỹ, đạt tới sự thống nhất cao trước khi ban hành. Thực hiện tốt tập trung dân chủ ngay trong quá trình soạn thảo các văn bản nhằm thực hiện nguyên tắc này. Phải xem quy chế là những quy định trực tiếp cho hoạt động lãnh đạo của cấp ủy và từng cấp ủy viên; đồng thời là căn cứ tiêu chuẩn để đánh giá vai trò, trách nhiệm, hiệu quả, hiệu lực công tác lãnh đạo. Các cấp ủy viên phải nắm vững quy chế, có ý thức trách nhiệm cao, chấp hành nghiêm nội dung và yêu cầu của quy chế. Những điều chưa phù hợp bộc lộ ra trong quá trình thực hiện cần được kịp thời điều chỉnh, khi có những quy định mới của cấp trên, phải nhanh chóng cụ thể hóa, bổ sung vào nội dung quy chế.
Ba là: Nâng cao chất lượng sinh hoạt của cấp ủy, tổ chức đảng.
Đặc biệt chú ý việc phát huy dân chủ, tăng số lượng đi đôi nâng cao chất lượng các ý kiến trong hội nghị của các tổ chức đảng. Bên cạnh việc nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực tư duy làm cơ sở cho việc vận dụng vào quá trình chuẩn bị và ra các quyết định, phải tìm những hình thức, biện pháp phát huy mạnh mẽ dân chủ nội bộ. Ý kiến đề xuất phải vạch rõ những vấn đề yếu kém nổi cộm, bức xúc để bàn bạc, giải quyết; tránh dài dòng, sai lệch trọng tâm, không rõ chính kiến. Cần coi việc tham gia ý kiến, trình bày chính kiến cá nhân trong sinh hoạt đảng là nhiệm vụ bắt buộc với từng đảng viên, phải được quy định rõ ràng, trở thành một tiêu chí đáng giá, phân loại đảng viên, đánh giá kết quả hoàn thành nhiệm vụ và trách nhiệm, vai trò đảng viên trong công tác xây dựng Đảng. Đồng thời cần kiên quyết đấu tranh khắc phục hiện tượng dân chủ hình thức và mọi biểu hiện của tệ quan liêu, gia trưởng độc đoán trong tổ chức đảng. Việc duy trì các cuộc họp phải đi đúng trọng tâm, phải biết lắng nghe, định hướng, khêu gợi vấn đề, phát hiện và kết luận vấn đề một cách chính xác, tránh kết luận chung chung, dung hòa các ý kiến cốt làm vừa lòng mọi người. Người lãnh đạo phải rèn luyện ý thức dân chủ, bình đẳng trong tranh luận, thảo luận, khắc phục thói gia trưởng, coi thường hoặc gò ép, áp đặt ý kiến đối với đảng viên. Mọi chủ trương, biện pháp lãnh đạo đều phải được quyết định bằng trí tuệ tập thể, tránh cục bộ, bè phái, hoặc quan liêu, duy ý chí, dân chủ hình thức, độc đoán chuyên quyền. Có như thế mới đảm bảo có nghị quyết lãnh đạo đúng đắn.
Bốn là: Thực hiện nghiêm túc nề nếp, chất lượng chế độ tự phê bình và phê bình.
Chúng ta chống các hiện tượng giải quyết không đúng mối quan hệ giữa lãnh đạo và chỉ huy, lấn lướt phạm vi trách nhiệm và quyền hạn của nhau; đồng thời cũng phải cảnh giác và kiên quyết ngăn chặn các biểu hiện tìm cách dung hòa giữa người chỉ huy và bí thư vì những động cơ cá nhân, cục bộ. Đây cũng là một biểu hiện của vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ.
Vì vậy, phải phát huy dân chủ, có cơ chế phù hợp lấy ý kiến quần chúng phê bình, đóng góp đối với cán bộ, đảng viên. Có quy định cụ thể để bảo vệ những người dám phê bình thẳng thắn với những hiện tượng sai trái, dám phê bình những biểu hiện vi phạm nguyên tắc của cán bộ đảng viên. Đồng thời xử lý nghiêm minh những hiện tượng lợi dụng phê bình để vu cáo, đả kích cá nhân, gây rối nội bộ. Cán bộ, đảng viên phải giữ gìn đoàn kết thống nhất trên cơ sở điều lệ, quy tắc tổ chức và tình đồng chí trong sáng. Biện pháp quan trọng là phải bố trí đúng cán bộ chủ trì.
Năm là: Tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy chế hoạt động của các cấp ủy, tổ chức Đảng.
Kiểm tra phải đi tới kết luận rõ ràng, đặc biệt là việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; kịp thời phát hiện những vấn đề đúng sai, chấn chỉnh và xử lý đúng đắn, kịp thời những biểu hiện đó. Phải chú trọng phát huy vai trò kiểm tra giám sát của quần chúng với cán bộ, đảng viên. Cần kết hợp kiểm tra thường xuyên, định kỳ với kiểm tra bất thường, linh hoạt các hình thức kiểm tra cụ thể; bảo đảm thường xuyên nắm vững thực chất tình hình chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, chấp hành nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế của tổ chức đảng. Kịp thời phát hiện, xem xét kết luận, xử lý bằng những hình thức kỷ luật thích đáng đối với những đảng viên có sai phạm trong chấp hành nghị quyết, hoặc có những lời nói, việc làm trái với quan điểm, với nghị quyết của Đảng; những hiện tượng độc đoán, chuyên quyền, hoặc tình trạng xuê xoa, giấu giếm khuyết điểm, “xử lý nội bộ”. Đề cao tính đảng, ý thức trách nhiệm của cán bộ đảng viên trong xây dựng tổ chức đảng và thực hiện các nhiệm vụ được giao. Có quy chế để cấp ủy đảng, tổ chức đảng quán lý cán bộ đảng viên khi đi công tác và thực hiện tốt quy chế quản lý đảng viên nơi cư trú. Mở rộng, phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng đi đôi với kỷ cương, tăng cường kỷ luật. Mọi hành vi vô tổ chức, vô kỷ luật không chấp hành nghị quyết, gây ra chia rẽ bè phái đều phải xử lý nghiêm minh. Khuyến khích năng động, sáng tạo song mọi năng động sáng tạo phải trong khuôn khổ đường lối, pháp luật. Luôn đề cao cảnh giác và kiên quyết đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận của các thế lực thù địch đối với nguyên tắc tập trung dân chủ.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là tiêu chí phân biệt Đảng Cộng sản chân chính với các đảng phái khác. Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ là thể hiện sự trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng. Đảng ta đã nhận thức đúng đắn, vận dụng thành công nguyên tắc tập trung dân chủ phù hợp với tình hình đặc điểm và nhiệm vụ xây dựng Đảng qua các giai đoạn và thời kỳ khác nhau. Bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện ở mối quan hệ biện chứng giữa hai thành tố tập trung và dân chủ. Việc giải quyết mối quan hệ giữa hai thành tố này quyết định đến chất lượng thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Đây cũng là nội dung tập trung nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, là điểm nhạy cảm mà các thế lực thù địch thường tập trung chống phá đối với Đảng ta.
Để thực hiện có chất lượng và không ngừng giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng hiện nay, cần kết hợp nhuần nhuyễn giữa việc nâng cao nhận thức của cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên về nguyên tắc tập trung dân chủ, duy trì nghiêm chế độ nề nếp và bảo đảm chất lượng sinh hoạt đảng; thực hiện có chất lượng sinh hoạt tự phê bình và phê bình, nâng cao tính đảng và ý thức trách nhiệm của cán bộ Đảng viên. Một trong những biện pháp quan trọng là phải quán triệt và cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách thành các quy định, quy chế cụ thể, khoa học, quy định rõ chức trách, nhiệm vụ, phạm vị quyền hạn, đặc biệt là mối quan hệ giữa lãnh đạo và chỉ huy trong từng cơ quan đơn vị. Đồng thời, coi trọng biện pháp có ý nghĩa cơ bản và lâu dài chính là không ngừng giáo dục, nâng cao trình độ toàn diện cho mọi cán bộ, đảng viên để mỗi cán bộ, đảng viên thực sự là người mẫu mực về phong cách dân chủ và kỷ luật, là chỗ dựa tin cậy cho quần chúng nhân dân./.
Trần Văn Huyên,
Phòng Nhà trường, Cục Tuyên huấn, Tổng cục chính trị