(TG) - Đảng và Nhà nước đã có những định hướng
chính sách phù hợp, kịp thời với từng giai đoạn phát triển của đất nước,
từng bước được điều chỉnh theo hướng bao quát, toàn diện hơn, chú trọng
nâng cao chất lượng dân số thích ứng với những biến đổi về cơ cấu dân
số.
Ngày 16/10, tại Hà Nội, Ban Tuyên giáo
Trung ương phối hợp với Quỹ dân số Liên Hợp Quốc tổ chức Hội thảo “Một
số định hướng chính sách về dân số trong giai đoạn mới”.
Tham dự Hội thảo có đồng chí Lâm Phương Thanh, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, ngài Arthur Erken, Trưởng đại diện Quỹ Dân số Liên hệ Quốc tại việt Nam cùng đông đảo các đại biểu trong nước và quốc tế.
Phát biểu Đề dẫn tại Hội thảo nêu rõ: Công tác DS-KHHGĐ luôn được Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, là yếu tố cơ bản nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Trải qua hơn 50 năm, công tác DS-KHHGĐ của Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng: Tốc độ gia tăng dân số ngày càng giảm dần; mức sinh giảm mạnh và đã đạt được mức sinh thay thế với số con trung bình cửa mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ là 2,03 con, ít hơn 3 lần số con cách đây 50 năm; tuổi thọ bình quân của người dân tăng lên, từ 40 tuổi (1960) tên 73 tuổi (2012); sức khỏe bà mẹ và trẻ em được cải thiện...
Những thành tựu nêu trên đã đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ, trong đó có kết quả của tăng thu nhập bình quân đầu người, cải thiện đời sống nhân dân, giảm tình trạng đói nghèo, tăng cường bình đẳng giới và đóng góp cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Đảng và Nhà nước đã có những định hướng chính sách phù hợp, kịp thời với từng giai đoạn phát triển của đất nước, từng bước được điều chỉnh theo hướng bao quát, toàn diện hơn, chú trọng nâng cao chất lượng dân số thích ứng với những biến đổi về cơ cấu dân số. Các quan điểm, định hướng chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác DS-KHHGĐ trong giai đoạn hiện nay và tiếp theo được thể hiện rất rõ trong Nghị quyết số 47-NQ/TW, ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị về ''Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số-kế hoạch hóa gia đình'' và Kết luận số 44-KL/TW, ngày 1/4/2009 của Bộ Chính trị về kết quả 3 năm thực hiện Nghị quyết số 47- NQ/TW.
Mặc dù đã đạt được một số kết quả nổi bật, song công tác DS-KHHGĐ của Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức gay gắt. Hiện nay, quy mô dân số Việt Nam đã gần 90 triệu người, là quốc gia đồng dân thứ 13 trên thế giới và đứng thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á, tốc độ tăng dân số tuy đã giảm nhiều song quy mô dân số còn khá lớn, đồng thời là nước nằm trong nhóm các nước có mật độ dân số cao nhất. thế giới. Chất lượng dân số ở mức trung bình; tuy nhiên, Việt Nam đang đứng trước những thách thức lớn: tốc độ già hóa dân số nhanh; mất cân bằng giới tính khi sinh tiếp tục tăng cao; chăm sóc sức khỏe sinh sản ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều hạn chế, sức khỏe sinh sản vị thành niên và thanh niên rất đáng lo ngại; sự bất bình đẳng giới vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để...
Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Lâm Phương Thanh đề nghị: Bên cạnh việc cung cấp thực trạng về tình
hình dân số ở Việt Nam, đặc biệt tập trung vào xu hướng biến động mức
sinh ở Việt Nam trung 10 năm gần đây; Hội thảo mong muốn nhận được nhiều ý kiến của các đại biểu, đưa ra những giải pháp trong việc giải quyết những khó khăn,
thách thức về công tác DS-KHHGĐ ở Việt Nam, làm cơ sở chuẩn bị cho việc
Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 47-NQ/TW vào năm 2015, giúp cho
Đảng và Nhà nước kịp thời có những định hướng chính sách phù hợp về công
tác dân số - KHHGĐ trong thời gian tới, góp phần tạo nguồn nhân lực có
chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Ngài Arthur Erken, Trưởng đại diện Quỹ Dân số Liên hệ Quốc tại Việt Nam cho biết: Việt Nam đã duy trì mức sinh đã giảm một cách vững chắc và đã xuống dưới mức sinh thay thế: 2,11 năm 2005; 2,03 năm 2009; 2,0 năm 2010 và 1,99 năm 2011. Đây là một thành tựu tuyệt vời của Chương trình quốc gia về Dân số và Kế hoạch hóa gia đình trong những thập kỷ vừa qua. Hiện nay, Việt Nam đang ở trong giai đoạn chuyển đỗi nhân khẩu học quan trọng, đây là cơ hội cho Việt Nam đưa ra những lựa chọn đúng đắn trong việc đầu tư kinh tế-xã hội giúp cho quá trình phát triển bền vững của đất nước.
Tuy nhiên ngài Arthur Erken cũng nhấn mạnh bốn thông điệp chính về chính sách dân số Việt Nam trong thời gian tới là:
Trước hết, cần phải có thêm nhiều nỗ lực hơn nữa để tập trung vào việc giải quyết những nhu cầu chưa được đáp ứng bằng việc cảm bảo tiếp cận phổ cập tới sức khỏe sinh sản và tình dục toàn diện và có chất lượng, đặc biệt là ở những vùng xa, và ở những dân tộc thiểu số và những nhóm dân số có trình độ học vấn thấp. Việc này, khi đó, sẽ thu hẹp khoảng cách giữa các vùng và các nhóm dân tộc trong một số các chỉ số phát triển liên quan.
Thứ hai, với sự suy giảm mức sinh nhanh chóng và tuổi thọ trung bình ngày càng tăng cao, dân số Việt Nam đang già hóa rất nhanh và sẽ bắt đầu vào giai đoạn được gọi là ''giai đoạn dân số già'' trong một thời gian ngắn. Các quốc gia đã trải qua xu hướng tương tự như Hàn Quốc, Singapore và Thái Lan đã đối mặt với nhiều thách thức trong việc đáp ứng những nhu cầu bảo trợ xã hội của dân số già hóa trong khi số người trong độ tuổi lao động đang thu hẹp lại.
Thứ ba, cùng với những xu hướng này chính là những lợi tức mà nhân khẩu học đem lại cho Việt Nam, còn được gọi là giai đoạn dân số vàng. Người trẻ tuổi chiếm khoảng 40% tổng dân số của Việt Nam, đây là một tỷ lệ cao nhất trong lịch sử từ trước đến nay. Đầu tư cho thanh niên trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội có chất lượng, bao gồm cả sức khỏe sinh sản và tình dục, giáo dục, đào tạo nghề và cơ hội việc làm có thể mang lại những lợi ích giúp phát triển bền vững.
Thứ tư, Việt Nam đang trải qua thời kỳ chuyển đổi nhân khẩu học duy nhất trong lịch sử: nhóm dân số trẻ đông đảo; nhóm dân số cao tuổi đang tăng và mất cân bằng giới tính khi sinh. Chính vì vậy, Luật Dân số sắp tới cần phải giải quyết các cơ hội và thách thức không thể thiếu của phát triền kinh tế-xã hội của quốc gia và tuân thủ nguyên tắc của Chương trình hành động của Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển (ICPD POA) và các Công ước quốc tế phù hợp khác mà Chính phủ Việt Nam là thành viên.
Đa số các ý kiến tham luận, trao đổi tại
Hội thảo đều khẳng định: Để tiếp tục phát huy những kết quả, thành tựu
đã đạt được, từng bước giải quyết các thách thức, vấn đề mới đặt ra đối
với công tác DS-KHHGĐ trong giai đoạn tới, cần có sự vào cuộc của cả hệ
thống chính trị, đồng thời, Việt Nam cũng rất cần có sự hỗ trợ của các
tổ chức quốc tế, đặc biệt là Quỹ Dân số Liên hợp quốc.
Một số đại biểu quốc tế cũng đã nêu những kinh nghiệm của quốc gia họ trong quá trình và các thời kỳ thực hiện công tác dân số, đồng thời khẳng định Việt Nam có thể tham vấn được những bài học từ thành công và thất bại của một số nước thuộc khu vực châu Á trong việc tận dụng các cơ hội và giải quyết các thách thức trong giai đoạn chuyển đổi nhân khẩu học này
Kết luận Hội thảo, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Lâm Phương Thanh cho rằng những kết quả của Hội thảo sẽ là cơ sở giúp các cơ quan chức năng của Việt Nam xác định rõ các trọng tâm chính sách về dân số và chăm sóc sức khoẻ sinh sản trong thời gian tới; từ ý kiến của các chuyên gia sẽ tạo điều kiện giúp lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam có được những thông tin chính xác, góp phần vào việc ban hành những quyết định đúng đắn liên quan đến định hướng chính sách dân số trong tình hình mới./.
Duy Hưng