Chủ Nhật, 22/12/2024
Văn hóa - Xã hội
Thứ Sáu, 10/5/2024 10:4'(GMT+7)

Nâng cao chất lượng, hiệu quả cơ chế kiểm soát và xử lý tin giả ở Việt Nam hiện nay dưới góc nhìn từ cách tiếp cận thể chế

Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ người dân sử dụng điện thoại thông minh và các phương tiện truyền thông xã hội thuộc nhóm cao trên thế giới. (Ảnh minh họa)

Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ người dân sử dụng điện thoại thông minh và các phương tiện truyền thông xã hội thuộc nhóm cao trên thế giới. (Ảnh minh họa)

THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TIN GIẢ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, quá trình chuyển đổi số và sự phát triển của khoa học - công nghệ, đặc biệt là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại nhiều thuận lợi, cơ hội, song cũng đặt ra nhiều rủi ro, thách thức đối với đời sống xã hội, thì một trong những nguy cơ tiềm ẩn nhiều yếu tố tiêu cực chính là “tin giả” (fake news). Tin giả được hiểu cơ bản là hệ thống những tin tức, câu chuyện không có thật, có yếu tố bị xuyên tạc, gán ghép và nội dung bị biến đổi theo ý đồ chủ quan của người chuyển tải… dưới nhiều hình thức, như thông tin xuyên tạc, bị bóp méo, bịa đặt, hình ảnh và đoạn phim bị cắt ghép, làm lệch bối cảnh, chuyển tải nội dung sai sự thật(1)... Tin giả được chia làm hai loại chính: Thông tin hoàn toàn không chính xác được cố tình đăng tải, lan truyền và thông tin “có thể” có một phần sự thật nhưng không hoàn toàn chính xác (do người tạo lập không kiểm chứng được toàn bộ sự thật trước khi chia sẻ hoặc cố tình phóng đại sự việc)(2). Trong bối cảnh bùng nổ truyền thông, nhất là truyền thông xã hội, tin giả từ chỗ là một nguy cơ, hiện tượng mang ý nghĩa tiêu cực, dần trở thành vấn nạn nghiêm trọng, hiện hữu ngày càng phổ biến hơn và để lại nhiều hệ lụy lớn, sâu sắc đối với đời sống xã hội(3). Hiện nay, sự phát triển không ngừng của các nền tảng công nghệ thông tin và các ứng dụng trên mạng internet ngày càng mở rộng không gian mới (được gọi là “không gian mạng”), khiến các hoạt động thông tin, tuyên truyền và định hướng dư luận xã hội là một trong những lĩnh vực đầu tiên phải chịu sự tác động trực tiếp(4).

Việt Nam là quốc gia đang phát triển, tỷ lệ người dân sử dụng điện thoại thông minh và các phương tiện truyền thông xã hội thuộc nhóm cao trên thế giới, do đó, xu hướng đọc tin trên không gian mạng của công chúng ngày càng gia tăng, khiến vấn nạn tin giả có nhiều điều kiện để hoành hành trong thời gian lâu dài. Hiện nay, có khoảng 77 triệu người Việt Nam đang sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội (chiếm 97,8% dân số từ 13 tuổi trở lên); lượng người dùng cũng có xu hướng tăng (năm 2022 tăng 6,9% so với năm 2021) cho thấy tiềm năng, phạm vi ảnh hưởng to lớn của các phương tiện truyền thông xã hội, ngày càng có sự chiếm lĩnh không gian thông tin(5). Nhìn chung, những loại tin giả ở Việt Nam thường tập trung vào các vấn đề sau đây:

Thứ nhất, phần lớn các nội dung tin giả đều hướng đến âm mưu xuyên tạc sai sự thật về tình hình, thực trạng quản lý, phát triển kinh tế - xã hội, như tung tin sai lệch về tình hình dịch bệnh COVID-19, về chính sách phát triển đô thị, xây dựng dự án, giải tỏa mặt bằng, công tác điều động, bổ nhiệm cán bộ,… hòng lôi kéo, dụ dỗ, kích động những người thiếu hiểu biết, thiếu thông tin thực hiện các hành động biểu tình, đòi yêu sách, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, đến lòng tin, sự ủng hộ của nhân dân đối với chính quyền. Thâm độc hơn, chúng còn thông tin ra ngoài dư luận quốc tế, tạo hình ảnh một đất nước méo mó, xấu xí, luôn có nhiều nổi cộm, là “điểm nóng” trong các vấn đề về tự do, dân chủ, nhân quyền, phân hóa giàu - nghèo… hướng tới đối tượng người xem là một bộ phận công chúng quốc tế chưa có hiểu biết nhiều về nước Việt Nam.

Thứ hai, mặc dù công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đạt được những kết quả tích cực, góp phần nâng cao uy tín của Đảng, Nhà nước và củng cố niềm tin trong nhân dân; tuy nhiên, nhiều đối tượng lại cố tình xuyên tạc việc xử lý cán bộ sai phạm, xâm hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc chỉ là tình trạng “đấu đá nội bộ”, tranh giành quyền lực trong Đảng. Bên cạnh đó, chúng thường tạo lập, xuất bản, lan truyền các bài viết, bài phân tích, nói chuyện trên các nền tảng mạng xã hội bên ngoài hòng đưa ra những nhận định, đánh giá mang tính chất xuyên tạc, sai lệch bản chất vụ việc, sự kiện, vấn đề còn hạn chế, bất cập trong nước để ra sức lợi dụng, hướng lái thông tin nhằm mục đích gây phương hại đến lợi ích, uy tín của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, phủ nhận những thành tựu trong công tác cán bộ thời gian qua.

Thứ ba, nội dung các tin giả thường xuyên liên quan đến công tác cán bộ và có mưu đồ xuyên tạc lý lịch, đời tư đội ngũ cán bộ chủ chốt của Đảng, Nhà nước và các bộ, ngành, địa phương; trong đó, tập trung vào việc bịa đặt lai lịch, sự nghiệp, gia đình của đội ngũ cán bộ cấp cao trong hệ thống chính trị nước ta; đồng thời, xây dựng và lan truyền những thông tin thất thiệt về công tác cán bộ, quy hoạch, điều động, sắp xếp, bố trí nhân lực trong hệ thống chính trị,… hòng tạo dư luận để gia tăng hiềm khích, kích động, phá vỡ khối đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân. Với việc lợi dụng thành tựu của khoa học - công nghệ, các thế lực thù địch, phản động cố tình cắt ghép, tạo ra các video, những hình ảnh không đúng sự thật, thâm độc hơn, chúng còn tách các bài nói, bài phát biểu của các cán bộ lãnh đạo ra khỏi bối cảnh cụ thể để xuyên tạc, bóp méo thông điệp gốc.

Thứ tư, các thế lực thù địch, phản động còn dùng thủ đoạn phổ biến là tạo lập, xây dựng các tài khoản cá nhân trên các phương tiện truyền thông xã hội mạo danh lãnh đạo Đảng, Nhà nước, người đứng đầu chính quyền các cấp, người nổi tiếng…, đồng thời, chỉnh sửa các thông số kỹ thuật của tập tin thời gian để đăng tải tin giả, tin sai sự thật nhằm dẫn dắt dư luận; lợi dụng các sự kiện “nóng”, các vấn đề thu hút sự quan tâm của xã hội để tạo dựng thông tin giả mạo, đánh lừa dư luận. Bên cạnh đó, xuất hiện hiện tượng nhiều đối tượng có động cơ vụ lợi kinh tế, thực hiện các hành vi tạo dựng tin giả, phát tán trên không gian mạng, nhất là các phương tiện truyền thông xã hội để thu hút người dùng tương tác nhằm thu về lợi ích từ việc bán hàng, ủng hộ, tài trợ bằng tiền, lợi ích vật chất... gây bức xúc, hoang mang dư luận. Mặt khác, tình trạng tràn lan các video có nội dung nhảm nhí, giật gân trên các phương tiện truyền thông xã hội nhằm lôi kéo người xem để kiếm tiền ngày càng có xu hướng tăng lên. Thậm chí, một số đối tượng tìm mọi cách để nổi tiếng trên không gian mạng, kể cả việc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, sản xuất các nội dung phản cảm, thiếu tính giáo dục, giả mạo thông tin, kích động bạo lực, bôi nhọ, xuyên tạc chính quyền...

Tất cả những loại hình, nội dung tin giả trên, dù xuất hiện theo phương thức và phát đi từ nguồn nào, cũng đều gây ra ảnh hưởng tiêu cực, để lại những hệ lụy lớn đối với sự phát triển của đất nước nói chung và của các địa phương nói riêng; do đó, cần chủ động nhận diện, phát hiện, kiểm soát và xử lý, cũng như giảm thiểu tác hại của chúng. Đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã ban hình nhiều chủ trương, chính sách nhằm nhanh chóng phát hiện, xử lý, ngăn chặn những thông tin sai trái, xấu, độc, có nguy hại cho uy tín của hệ thống chính trị(6); đồng thời, chú trọng xây dựng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, tạo cơ chế pháp lý để kiểm soát, xử lý tin giả trong môi trường các phương tiện truyền thông xã hội và bùng nổ thông tin thông qua nhiều thiết chế chính thức của Nhà nước, như Bộ Thông tin và Truyền thông (cụ thể là Trung tâm xử lý tin giả Việt Nam thuộc Cục Phát thanh - Truyền hình và Thông tin điện tử), Bộ Công an, Thanh tra Nhà nước và thanh tra của các địa phương,... Nhìn chung, mỗi cơ quan, đơn vị đều có chức năng, thẩm quyền khác nhau trong việc phát hiện, kiểm soát và xử lý tin giả. Về vấn đề này, Đại hội XIII của Đảng cũng nhấn mạnh nhiệm vụ: “Nâng cao chất lượng, bảo đảm an ninh, an toàn hệ thống thông tin, báo chí, internet, xuất bản; tăng cường năng lực quản lý không gian mạng. Xây dựng các cơ quan báo chí, tổ hợp truyền thông chủ lực đủ mạnh để thực hiện tốt chức năng thông tin, tuyên truyền thiết yếu, làm chủ mặt trận thông tin”(7).

Tuy vậy, chính từ đặc thù trong công tác quản lý thông tin cũng như nhiều đặc điểm khác về tâm lý số đông, văn hóa, tính cách... con người Việt Nam trong xã hội hiện đại, ít nhiều tạo thêm nhiều cơ hội cho tin giả hình thành và lan truyền với tốc độ nhanh chóng. Do vậy, nhiệm vụ cấp thiết trước mắt là chủ động xây dựng, cải thiện, nâng cao chất lượng hệ thống các cơ chế, giải pháp nhằm kiểm soát, xử lý và giảm thiểu tác hại của tin giả một cách có hiệu quả trên tinh thần “tăng cường quản lý và phát triển các loại hình thông tin, truyền thông trên internet. Kiên quyết loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc, phản động, ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị - xã hội, thuần phong mỹ tục”(8).

Công an huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ tống đạt quyết định, xử phạt vi phạm hành chính đối với cá nhân về hành vi “Lợi dụng phương tiện truyền thông xã hội để cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức” trên facebook. (Ảnh: TTXVN)

NHỮNG KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC

Một là, tình trạng phát tán tin giả, tin sai sự thật, hình ảnh phản cảm, độc hại trên các phương tiện truyền thông xã hội trong nước và nước ngoài đang ở mức đáng báo động và có diễn biến phức tạp, theo chiều hướng gia tăng, trong khi công tác đấu tranh, kiểm soát, quản lý thông tin, truyền thông, các hành vi đưa tin vẫn chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ, khoa học, tính hiệu quả chưa cao. Hơn nữa, một bộ phận người sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội có tâm lý cho rằng, khi cung cấp, phát tán thông tin trên các nền tảng phương tiện truyền thông xã hội của nước ngoài sẽ khó bị phát hiện danh tính, có suy nghĩ “vô danh nên vô trách nhiệm”, không bị xử lý, dẫn tới việc tự do phát ngôn và không để ý đến hậu quả.

Hai là, người dân hiện khó có căn cứ, cơ sở để xác định đâu là “tin thật” nếu cơ quan chức năng không kịp thời xác nhận, do đó, tin giả dễ dàng được phát tán với số lượng theo cấp số nhân, nhất là về những vấn đề “nóng”, thời sự, được nhiều người quan tâm... Mặt khác, dù số lượng các trang mạng xã hội trong nước được cấp phép khá lớn, nhưng chưa phát huy hiệu quả thực tế, lượng người sử dụng cũng như tính năng tương tác, sự thuận tiện còn thấp; mức độ tác động, ảnh hưởng đến dư luận xã hội hạn chế; phạm vi cung cấp nội dung hẹp, theo từng lĩnh vực chuyên môn cụ thể nên khó thu hút được người sử dụng. Trong khi đó, các phương tiện truyền thông xã hội nước ngoài xuyên biên giới với nhiều tính năng được cập nhật liên tục, phù hợp với nhu cầu người sử dụng, có những tác động lớn đến xã hội. Chính vì chưa xây dựng được “hệ sinh thái số” đủ mạnh, đáp ứng được nhu cầu sử dụng của người dân, phụ thuộc vào bên ngoài, nên dẫn tới những bất cập, khó khăn trong thực hiện công tác quản lý, đấu tranh với những vi phạm của người sử dụng nhằm bảo đảm môi trường không gian mạng lành mạnh và hạn chế những tác động tiêu cực.

Ba là, hệ thống pháp luật của Việt Nam hiện nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật riêng biệt quy định về phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh, xử lý hành vi tạo lập và lan truyền tin giả. Do đó, có nhiều hành vi, trường hợp tạo lập, lan truyền tin giả trên không gian mạng hoặc không gian thực trong xã hội khó áp dụng được quy định của Luật An ninh mạng, Bộ luật Hình sự, pháp luật hành chính… để xử lý. Vì vậy, cần thiết phải xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật riêng biệt về phòng, chống tin giả tại Việt Nam(9).

Bốn là, các doanh nghiệp trong nước còn gặp nhiều khó khăn về vốn, hạn chế về công nghệ, trình độ quản lý nên các sản phẩm dịch vụ internet, nhất là các dịch vụ truyền thông xã hội ra thị trường còn yếu, không đủ sức hấp dẫn. Việc phải chấp hành nghiêm các quy định về quản lý nội dung thông tin, tên miền, nghĩa vụ tài chính số đối với các doanh nghiệp cũng làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước, ít thu hút người tham gia đầu tư; nội dung và tương tác ít, không phong phú, nên hầu hết người dân vẫn sử dụng các ứng dụng xuyên biên giới tiện lợi hơn, như Facebook, Youtube, Google,… để thỏa mãn nhu cầu chia sẻ, bình luận, trao đổi thông tin.

NHỮNG NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP NHẰM THỂ CHẾ HÓA CƠ CHẾ KIỂM SOÁT VÀ XỬ LÝ TIN GIẢ Ở NƯỚC TA THỜI GIAN TỚI

Thứ nhất, tiếp tục chủ động triển khai thực hiện có hiệu quả những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về vấn đề an toàn thông tin, an toàn mạng, phòng, chống tin giả; chú trọng nhiệm vụ nâng cao nhận thức, khả năng nhận diện đặc điểm, dạng thức, nguồn gốc... thông tin giả cho đội ngũ cán bộ cơ quan có chức năng, trách nhiệm quản lý, cũng như người dân. Mặt khác, tăng cường phối hợp, liên kết giữa các cơ quan chuyên môn với các đơn vị khoa học - công nghệ nhằm gia tăng việc sử dụng các phần mềm nhận diện tin giả. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền trong đấu tranh với tin giả cần được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, bảo đảm các yếu tố sau: 1) Hoạt động tuyên truyền phải bảo đảm tính kịp thời và có tính lan tỏa tới phạm vi rộng các nhóm công chúng, chú trọng sử dụng các chuyên gia, người có hiểu biết sâu về các lĩnh vực cần tuyên truyền, đồng thời các thông điệp tuyên truyền phải có chất lượng, hấp dẫn, phù hợp với từng đối tượng; 2) Tăng cường nội dung tuyên truyền liên quan tới thực hiện các quy định của pháp luật về an ninh mạng để nâng cao nhận thức của người dùng các phương tiện truyền thông xã hội trong phòng, chống tin giả. Trong đó, cơ quan thực hiện công tác tuyên truyền phải chủ động, thường xuyên phân tích, làm rõ, cung cấp thông tin liên quan tới các hành vi vi phạm Luật An ninh mạng, góp phần nâng cao nhận thức của người dùng các phương tiện truyền thông xã hội về công tác phòng, chống tin giả.

Thứ hai, cần nghiên cứu, tiến hành sửa đổi Luật An ninh mạng năm 2018 theo hướng có quy định cụ thể, rõ ràng, bảo đảm định tính hóa và định lượng hóa những tiêu chí để áp dụng chế tài đối với mọi hành vi của cá nhân, tổ chức có liên quan đến việc sản xuất, phát tán cũng như sử dụng tin giả. Trong đó, cần xây dựng định nghĩa rõ ràng về khái niệm “tin giả” để dễ nhận diện hơn trong thực tế; đồng thời không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn gắn với tinh thần liêm chính, khoa học cho các cơ quan quyền lực công chịu trách nhiệm quản lý, kiểm soát việc tuân thủ Luật An ninh mạng. Mỗi cơ quan, tổ chức cần xây dựng những bộ quy tắc, quy định về thông tin nội bộ, bảo mật của đơn vị mình; xử lý nghiêm những hành vi phát tán thông tin nội bộ không được phép của các thành viên gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín, hiệu quả hoạt động của đơn vị; quy định về tư cách cá nhân khi phát ngôn trên trên truyền thông…

Thứ ba, chú trọng phát huy vai trò của các cơ quan chức năng trong quản lý, xử lý tin và và tăng cường các điều kiện bảo đảm công tác phòng, chống và xử lý tin giả; không ngừng cập nhật kiến thức mới, nâng cao năng lực, trình độ, bản lĩnh cho đội ngũ cán bộ, nhân viên, đồng thời phải đầu tư trang thiết bị, công nghệ đủ hiện đại nhằm phát hiện, ngăn chặn, cảnh báo và xử lý kịp thời vấn nạn tin giả hiệu quả, tránh để rơi vào tình thế bị động dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Bên cạnh đó, cần tập trung nghiên cứu và hoàn thiện hệ thống cơ quan chuyên trách tư vấn chính sách và giải pháp phòng, chống tin giả. Trước hết, cần phát huy hơn nữa vai trò, tính hiệu quả của Trung tâm xử lý tin giả Việt Nam; khẩn trương triển khai thực hiện xây dựng những cơ chế, chính sách để hỗ trợ kịp thời các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ internet, tạo động lực sản xuất, đăng tải nội dung số trung thực, chính xác; xây dựng những ứng dụng truyền thông xã hội đủ mạnh để đáp ứng nhu cầu người dùng, nâng cao khả năng cạnh tranh, giảm sự phụ thuộc vào các phương tiện truyền thông xã hội nước ngoài, trong đó tập trung vào 4 mảng dịch vụ chính, cụ thể: Mạng xã hội; các chia sẻ video, hình ảnh; công cụ tìm kiếm trực tuyến; nền tảng thương mại điện tử…

Thứ tư, cần sớm ban hành quy định về quy trình xử lý tin giả và phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan có liên quan trong kiểm soát và xử lý tin giả. Ở nước ta hiện nay, chưa có một bộ quy chế chính thức về quy trình tiếp nhận và xử lý tin giả cũng như trách nhiệm của các bên có liên quan trong quá trình tiếp nhận, xử lý. Sự ra đời của Trung tâm xử lý tin giả Việt Nam tuy thể hiện bước tiến lớn về nhận thức và thực tiễn đối với vấn đề “tin giả”, tuy nhiên, để bảo đảm tính minh bạch, chuyên nghiệp và hiệu quả hơn thì phải tiếp tục thể chế hóa một cách đầy đủ, toàn diện hơn. Mặt khác, yêu cầu các ứng dụng truyền thông xã hội xuyên biên giới, như Facebook, Google, Youtube, Tiktok… thực hiện nghiêm các quy định đã có, cam kết không lưu trữ, truyền phát những nội dung vi phạm pháp luật Việt Nam; đồng thời, hợp tác chặt chẽ trong việc ngăn chặn, gỡ bỏ thông tin xấu độc…

Thứ năm, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm và thiết chế, luật pháp hóa việc nâng cao kỹ năng và trách nhiệm xã hội phòng, chống tin giả cho người dân; xử lý nghiêm, kịp thời những hành vi tạo lập và phát tán tin giả theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, sớm đưa việc giáo dục kỹ năng số vào các cơ sở giáo dục; nâng cao kỹ năng cho người đọc tự bảo vệ mình, phân biệt được tin đúng, tin giả, tin sai sự thật và tích cực tham gia vào quá trình đấu tranh phòng, chống tin giả của đất nước. Chú trọng nâng cao ý thức, nhận thức của người sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội, bảo đảm sự sáng suốt trong tiếp nhận và xử lý thông tin, theo dõi sát thông tin chính thống, không chia sẻ những thông tin chưa được kiểm chứng, chưa được xác thực, tránh gây hoang mang dư luận, tạo hiệu ứng, tâm lý tiêu cực; kịp thời thông báo đến cơ quan chức năng các trường hợp đăng thông tin bịa đặt, sai sự thật. Đồng thời, các cơ quan thực thi pháp luật cũng cần tăng cường rà soát, xử lý nghiêm túc, cương quyết đối với những cá nhân cố tình phát tán thông tin sai sự thật trên các phương tiện truyền thông xã hội, gây hoang mang cho người dân(10)./.

TS. PHẠM THỊ HOA
Học viện Báo chí và Tuyên truyền

___________________

(1) (3) Nguyễn Ngọc Huy: Ứng phó với tin giả trong quản lý xã hội, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 1/6/2021.

(2) Đỗ Văn Quân, Lại Thị Thu Hà: Kiểm soát và giảm thiểu tác hại xã hội của tin giả, Trang thông tin điện tử Hội đồng lý luận Trung ương, ngày 8/8/2021.

(4) Vũ Trọng Lâm: Xây dựng không gian mạng an toàn, lành mạnh, bảo đảm phục vụ tốt hoạt động thông tin, tuyên truyền và định hướng dư luận xã hội, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 4/12/2022.

(5) Nguyễn Thị Trường Giang, Nguyễn Thị Thu: Sử dụng mạng xã hội trong truyền thông chính trị ở Việt Nam, Tạp chí Lý luận chính trị điện tử, ngày 9/9/2022.

(6) Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 25/12/2013 của Bộ Chính trị về “Phát triển và tăng cường quản lý báo chí điện tử, mạng xã hội và các loại hình truyền thông khác trên internet”; Quyết định số 311/QĐ-TTg, ngày 5/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt Chương trình giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống, văn hóa cho thanh niên, thiếu niên trên không gian mạng giai đoạn 2022-2030”; Luật An toàn thông tin mạng (năm 2015); Nghị định số 15/2020/NĐ-CP, ngày 3/2/2020 về “Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử”; Nghị định số 72/2013/NĐ-CP, ngày 15/7/2013 của Chính phủ về “Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng”; Luật An ninh mạng năm 2018; Quyết định số 874/QĐ-BTTTT, ngày 17/6/2021 của Bộ Thông tin và Truyền thông, về “Ban hành Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội kèm theo quy định về quy tắc ứng xử cho tổ chức, cá nhân và cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan nhà nước khi sử dụng mạng xã hội”,…

(7) (8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.272, 146.

(9) Huyền Thanh: Cần xây dựng văn bản quy phạm pháp luật riêng biệt về phòng, chống tin giả, Báo Công an nhân dân online, ngày 12/3/2023.

(10) Trọng Đạt: Xử lý sai phạm về tin giả và nâng cao hiệu quả quản lý mạng xã hội, Tạp chí Tuyên giáo điện tử, ngày 10/8/2020.

(Nguồn: tapchicongsan.org.vn)

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất