Thứ Bảy, 21/9/2024
Nghiên cứu trao đổi
Thứ Sáu, 6/9/2013 21:52'(GMT+7)

Nhà văn, sứ giả văn hóa dân tộc thời toàn cầu hóa

(Ảnh minh hoạ)

(Ảnh minh hoạ)

1. Trong thời đại kỹ thuật số, không phải không có lý khi ai đó cho rằng Trái đất muôn vàn yêu quý của chúng ta chỉ là một cái làng lớn. Các quốc gia, các dân tộc trên hành tinh này ít cách biệt hơn nếu như không muốn nói là đang có xu hướng xích lại gần nhau. Con người làm ra những phương tiện vận chuyển đường không, đường thủy, đường bộ ngày càng hiện đại, cùng với hệ thống mạng tinh vi và thay đổi đến chóng mặt kết nối khắp mọi miền trên Trái đất làm cho nhiều câu chuyện "trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã thông". Những tập đoàn kinh tế, những công ty xuyên quốc gia không còn là chuyện lạ lẫm với chúng ta. Toàn cầu hóa, đấy là khái niệm quan trọng bậc nhất, thường xuyên được con người nhắc đến. Hầu như mọi lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân sự và tất nhiên là cả văn hóa nữa đều bị chi phối bởi cái gọi là toàn cầu hóa. Rất mau lẹ, những quốc gia có mức thu nhập trung bình như Việt Nam hoặc kém hơn vẫn có thể xài những sản phẩm mới mẻ nhất, tất nhiên là rất hiện đại, tinh vi mà nói theo ngôn ngữ bụi là "hàng khủng" và cũng đắt tiền nhất được sản xuất ra từ những nước G7.

Toàn cầu hóa là quá trình tất yếu của lịch sử nhân loại, dù ai cố sức bế quan tỏa cảng cũng không ngăn chặn được sự thâm nhập bạo liệt và lạnh lùng của nó vào quốc gia, dân tộc mình ở nhiều phương diện. Rất, rất nhiều người trong thiên hạ đông đúc và tò mò bây giờ chỉ cần nhấp chuột bấm phím máy tính đã nối mạng là có thể biết 24 giờ qua thế giới có những chuyện gì, từ những vụ biểu tình bạo loạn, đánh bom khủng bố đến sáng kiến kỳ quặc là người ta có thể thỏa mãn tình dục khi xa nhau nhờ những bộ đồ lót được số hóa ...Chao ôi, nhân loại đang hiện thực hóa những ý tưởng cách đây chưa lâu mấy được coi là viển vông, điên rồ trong dòng chảy cuồn cuộn mang tên toàn cầu hóa.


2.
Văn hóa nói chung và văn học nói riêng của mỗi dân tộc cũng không thể bình an, đứng riêng một cõi. Thực ra, sự hòa nhập, giao thoa văn hóa đã có từ lâu, hình như nó đi trước cả kinh tế, chính trị... Cách đây mấy trăm năm, Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều bằng chữ Nôm với thể thơ lục bát của Việt Nam trên cơ sở nội dung một tác phẩm văn xuôi của Thanh Tâm tài nhân (Trung Quốc) là một ví dụ về giao thoa văn chương. Nhưng cái đáng nói là Truyện Kiều của Tố Như không bị chìm khuất, lép vế sau Đoạn trường tân thanh mà nó đã trở thành tác phẩm khổng lồ, trở nên chói sáng rực rỡ bởi những câu thơ lục bát tài hoa viết bằng chữ Nôm chỉ có ở Việt Nam thấm đẫm nỗi xót xa nhân loại từ "Những điều trông thấy mà đau đớn lòng". Lòng thương người, tính nhân văn ắp ứa từng con chữ; nhân loại tìm thấy trong bóng dáng nàng Kiều của Nguyễn Du những số kiếp tài sắc bạc mệnh, từ đó ghê tởm hờn căm cái ác độc, cái xấu xa và khát khao yên bình hạnh phúc cho con người bé nhỏ.


Tôi nghĩ, Nguyễn Du đã đi đến tận cùng dân tộc Việt của mình, kể cả nỗi đau và khát vọng nên mới gặp được nhân loại trong mẫu số chung là ước mong về cuộc sống lương thiện, nhân hòa. Cũng như vậy, thơ Nguyễn Trãi, thơ Hồ Xuân Hương... mới khẳng định được giá trị tư tưởng và nghệ thuật ở ngoài biên giới Tổ quốc này. Sáng tỏ ra một điều, đã có từ xưa, dù có giao thoa hòa nhập đến mức độ nào đi nữa thì cốt cách, hồn vía dân tộc vẫn phải là cốt lõi, vẫn là cái đặc trưng của mình. Đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc là đánh mất tất cả. Văn hóa là tấm chứng minh thư chính xác nhất của mỗi dân tộc; không biết giữ gìn, bảo toàn và phát triển nó thì mọi cố gắng sáng tạo văn học nghệ thuật, theo tôi sẽ không tới đích, sẽ khó vươn ra nhân loại được.


3.
Khi viết ra những dòng này, tôi lại nhớ tới những suy nghĩ về nghề của một nhà văn quân đội mà tôi rất kính trọng là Nguyễn Minh Châu. Ông tâm sự rằng: Mỗi nhà văn gắn chặt với số phận dân tộc và đất nước mình – như cái đai của người mẹ quấn quanh mình đứa trẻ. Và hình như còn hơn thế nữa. Người nghệ sĩ là một đứa con của đất nước mà chỉ có nó mới có thể giao cảm hết những cái vui buồn và nhọc nhằn của người mẹ - cả những điều mà người mẹ không bao giờ nói ra (Trang giấy trước đèn). Những điều nhà văn tài danh này suy ngẫm rất đáng để các nhà văn chúng ta soi mình trong dòng hội nhập toàn cầu hóa hôm nay: Diễn tả chân thực đời sống con người Việt Nam thấu tận chiều sâu triết học, con đường văn học ta luôn luôn được cầm tay nhân dân và tìm thấy tiếng nói trong nền văn học thế giới (Tạp chí Văn học, 5 - 1989).


Ý niệm ấy có vẻ như đồng thuận với ý niệm của không ít nhà văn, nhà thơ không mang quốc tịch Việt Nam. Chẳng riêng gì ta, bản sắc dân tộc là điều thiêng liêng rất được các nhà văn, nhà thơ nước ngoài chú ý. Trong Liên hoan Thơ quốc tế châu Á-Thái Bình Dương lần thứ nhất được tổ chức vào đầu năm 2012 tại Hạ Long (Quảng Ninh, Việt Nam), tôi đã nghe được điều ấy từ một số nhà thơ nước ngoài. Trong bài viết của mình, Nikolai Preiaxlov đến từ đất nước Nga đã khẳng định: Giữ gìn thơ ca dân tộc, đó không chỉ đơn giản là bảo toàn văn hóa khỏi sự vứt bỏ và sự xói mòn bởi những trào lưu văn học mốt mới. Giữ gìn thơ ca dân tộc, đó còn có nghĩa là bảo tồn tâm hồn của chính nhân dân, bởi vì chính trong thơ ca đã in dấu các truyền thống sinh hoạt và nghi lễ của nhân dân, những bài ca, những anh hùng ca, huyền thoại và đạo lý nhiều thế kỷ của cha ông.


Cũng hướng về dân tộc và Tổ quốc mình, nhà thơ Agus R. Sarjono (Indonesia) tâm sự: Trái tim của những nền văn hóa được gìn giữ và diễn đạt thông qua các tác phẩm văn học. Ở khía cạnh này, sự gặp gỡ của quan hệ nội tại dựa trên những tác phẩm văn học sẽ cho chúng ta cơ hội lớn để đối thoại về văn hóa và văn minh một cách tôn trọng và hòa bình. Với thi ca, ông cảm nhận: Thơ nhìn vào thế giới từ những đặc điểm riêng và sự khác biệt của nó, vì thế thơ có sức mạnh bảo vệ và phát triển bản sắc văn hóa của mỗi quốc gia, chạm vào trái tim của con người trên khắp thế giới. Trái tim ấy sẵn sàng hợp tác với những dân tộc của một quốc gia, một nền văn hóa khác, gieo trồng hòa bình trên mảnh đất màu mỡ của tri thức.


Rõ ràng, thơ ca nói riêng và văn chương nói chung vẫn chưa mất đi giá trị của nó trong việc bảo vệ và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời cũng là nhịp cầu nối các nền văn hóa lại với nhau trong tình yêu và khát vọng hòa bình cho nhân loại. Những bước tiến của tri thức, của khoa học kỹ thuật cần được “bảo hiểm” bởi lòng nhân ái và tình thương đồng loại, mà như chúng ta đã biết thi ca và văn chương luôn hướng về điều đó.


4.
Rất gần đây, trong Hội thảo bàn tròn Vai trò các nhà văn Á-Phi trong thời đại toàn cầu hóa, tổ chức tại trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam (9 - Nguyễn Đình Chiểu - Hà Nội), tôi cũng nghe các nhà văn trong và ngoài nước nhiều lần nhấn mạnh đến bản sắc dân tộc. Họ cho rằng: Trong thời đại toàn cầu hóa, nhà văn phải thể hiện được lương tâm của nhân dân nước mình và quyết không để một thế lực nào đó làm bá chủ về văn hóa, phải chống sự quay lại của chủ nghĩa thực dân hóa. Mọi nền văn hóa, mọi nền văn học trên thế giới đều phải được bình đẳng. Dù quá trình toàn cầu hóa có diễn tiến quyết liệt và tàn khốc đến bao nhiêu thì sự tôn trọng thành thực các nền văn hóa khác nhau là một trong các yếu tố bảo đảm hòa bình cho nhân loại. Văn hóa nói chung và văn học nói riêng luôn luôn là nhịp cầu nối hữu nghị để các dân tộc, các quốc gia xích lại gần nhau.


Tôi rất tâm đắc với ý kiến của nhà văn Fadhl Thamir đến từ I-rắc: Nhà văn phải là những sứ giả chuyển thông điệp của dân tộc mình ra thế giới, ra nhân loại...


Không chỉ các nhà văn Á-Phi, mà tôi nghĩ rằng, ai là người cầm bút chân chính trên Trái đất – cái làng chung của nhân loại - cũng đều suy nghĩ và mong muốn làm được như thế./.


Nguyễn Hữu Quý

(Nguồn: QĐND)


Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất