Việt Nam do
đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta khởi
thảo và công bố năm 1943 khi toàn Đảng, toàn dân ta đang dồn mọi tâm
huyết và nỗ lực để tiến hành một cuộc cách mạng về chính trị nhằm giành
lại độc lập tự do cho dân tộc. Cũng giống như sự kiện năm 1905 (12 năm
trước khi Cách mạng Tháng Mười bùng nổ), V.I. Lê-nin đã viết một bài báo
có tính cương lĩnh về văn hóa: Tổ chức đảng và văn học đảng. Hai sự
kiện diễn ra ở hai thời điểm lịch sử, ở hai nước khác nhau nhưng đã nói
lên một điều tất yếu là những người mác-xít - lê-nin-nít trong hoạt
động cách mạng của mình luôn quan tâm đến vấn đề văn hóa. Vì rằng, làm
cách mạng thực chất là giải phóng con người, là tạo điều kiện để phát
triển và hoàn thiện con người. Chủ nghĩa xã hội, theo các nhà kinh điển
mác-xít, là một hình thái phát triển cao về văn hóa của lịch sử.
Bản Đề cương với ba nội dung, ba phương châm: dân tộc, khoa học, và đại chúng,
không chỉ nhằm đấu tranh trực diện chống lại văn hóa phản động của thực
dân Pháp đang áp đặt lên nước ta, mà còn phản ánh được quy luật vận
động và phát triển tất yếu của văn hóa. Sức sống của bản Đề cương là ở đó.
Nhiều
trí thức, văn nghệ sĩ nước ta trước cách mạng ít nhiều đều cảm thấy sự
bế tắc trong cuộc sống và trong sự sáng tạo của mình. Đó là nỗi đau của
một dân tộc bị nô lệ. Tư duy và ngòi bút của họ trở nên han rỉ, cuộc
sống trở nên tù túng, như nhà văn Nam Cao đã phản ánh qua tác phẩm “Sống
mòn”. Chính trong tâm trạng đó, họ bắt gặp ánh sáng của Đề cương văn
hóa. Nhiều trí thức, văn nghệ sĩ lúc đó đã bị hấp dẫn, bị lôi cuốn bởi
sức mạnh của trí tuệ, của khát vọng cao đẹp từ những người cộng sản Việt
Nam đối với văn hóa và đối với vận mệnh của dân tộc nên đã hăng hái đi
theo cách mạng và kháng chiến. |
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, tư tưởng của
Đề cương
mới thực sự được triển khai trong đời sống. Từ những ngày đầu kháng
chiến, khi đất nước đang phải trải qua muôn vàn khó khăn và thử thách
trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn chỉ cho
nhân dân biết trước mắt không chỉ có một thứ giặc, mà là ba thứ giặc:
giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Cả ba thứ giặc đều nguy hiểm như
nhau, và chiến thắng ba thứ giặc đều vinh dự như nhau. Tư tưởng đó càng
khẳng định quan điểm của những người cộng sản đối với lĩnh vực văn hóa:
Văn hóa không tách rời sự nghiệp cách mạng. Quán triệt tư tưởng của
Đề cương,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra khẩu hiệu “Kháng chiến hóa văn hóa và văn
hóa hóa kháng chiến”. Văn hóa được coi như một mặt trận, một động lực và
mục tiêu của cuộc kháng chiến. Văn hóa trở thành nội dung đồng hành của
sự nghiệp kháng chiến. Sự nghiệp xây dựng văn hóa mới theo phương châm
dân tộc, khoa học, đại chúng
đã tạo tiềm lực cho sự nghiệp kháng chiến - kiến quốc và mỗi bước thắng
lợi của kháng chiến lại tạo tiền đề cho sự phát triển văn hóa. Kết quả
là qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, văn hóa
Việt Nam nói chung và văn hóa nghệ thuật nói riêng đã “xứng đáng đứng
vào hàng ngũ tiên phong của những nền văn hóa nghệ thuật chống đế quốc
trong thời đại ngày nay” (Nghị quyết Đại hội IV của Đảng Cộng sản Việt
Nam).
Bài học lớn về sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới theo tinh thần của bản
Đề cương văn hóa
là: Trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù thuận lợi hay khó khăn, dù hòa bình
hay chiến tranh, văn hóa luôn là một mặt trận, ở đó những người cộng sản
phải có mặt, phải phát huy vai trò lãnh đạo của mình.
Văn hóa
phải cắm rễ sâu vào truyền thống dân tộc, khai thác và phát huy tốt nhất
các giá trị của truyền thống dân tộc, phải gắn với đời sống thực tiễn
của nhân dân, cảm thông với tâm hồn quần chúng, là người bạn đường đáng
tin cậy của quần chúng, đồng thời giúp quần chúng vượt qua những ràng
buộc vô lý của quá khứ, soi rọi ánh sáng của tư duy khoa học để quần
chúng tự đổi mới mình.
Đó là bài học lịch sử mà chúng ta cần đi
sâu nghiên cứu, tổng kết. Ở đây có hàng loạt những câu hỏi được đặt ra
và cần giải đáp. Nếu không có bản
Đề cương với ba phương châm
dân tộc, khoa học, đại chúng thì
liệu ngay từ những ngày đầu kháng chiến chúng ta có thể huy động một
đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ tài năng tham gia sự nghiệp kháng chiến và
xây dựng nền văn hóa mới không? Nếu Đảng và Bác Hồ không quan tâm ngay
từ đầu sự nghiệp xây dựng một nền văn hóa mới thì chúng ta có thể huy
động sức mạnh to lớn của toàn dân tộc vào sự nghiệp kháng chiến được
không? Trong hoàn cảnh đó liệu cuộc kháng chiến của chúng ta có giành
thắng lợi rực rỡ được không? Đặt ra và giải quyết các câu hỏi đó cũng
chính là tạo điều kiện để xây dựng và phát triển văn hóa ở thời kỳ lịch
sử mới, thời kỳ tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Kể từ
sau năm 1975, đặc biệt là từ năm 1986 - dấu mốc đất nước ta chuyển mình
sang thời kỳ đổi mới, đứng trước chúng ta vẫn là hai nhiệm vụ chiến
lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nhưng mục tiêu lâu
dài là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là xu thế tất yếu để đạt mục tiêu trên. Nhưng để tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi sự nghiệp văn hóa phải phát
triển, đáp ứng những nhu cầu mới của thực tiễn, phải làm cho văn hóa
thực sự trở thành động lực của sự phát triển.
Trước đây, trong
nền kinh tế mà nông nghiệp là chủ yếu, với trình độ học vấn thấp, chỉ
cần thanh toán nạn mù chữ, biết đọc biết viết, người nông dân vẫn sản
xuất ra lúa gạo, người chiến sĩ vẫn biết sử dụng vũ khí để đánh giặc.
Ngày nay, tình hình đã khác. Khi nhân loại đã bước vào văn minh kỹ thuật
và công nghệ, người lao động phải được nâng cao về học vấn và tay nghề.
Trước đây trong cuộc sống nông nghiệp chưa đặt ra yêu cầu cao về xây
dựng một nền nếp khoa học trong tư duy, trong tác phong và nếp sống.
Ngày nay sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang đòi hỏi mỗi người
phải từ bỏ tác phong chậm chạp, luộm thuộm, thiếu kế hoạch trước đây để
đưa khoa học vào đời sống. Trước đây chỉ với chủ nghĩa yêu nước truyền
thống, chúng ta đã đủ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng. Ngày nay
cùng với chủ nghĩa yêu nước phải yêu chủ nghĩa xã hội, phải khẳng định
chủ nghĩa xã hội là định hướng cho mọi đường lối, chính sách về kinh tế
và xã hội. Không nhận thức ra điều đó, không biết kết hợp chủ nghĩa yêu
nước truyền thống với chủ nghĩa xã hội thì sẽ trở thành nạn nhân của
kinh tế thị trường và của quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu. Nói cách
khác, thời đại mới đòi hỏi ở nền văn hóa mới phẩm chất mới, đó là tính
tiên tiến. Tính tiên tiến được thể hiện trong sự kiên định ý thức hệ
cách mạng và khoa học trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Tính tiên tiến còn được thể hiện trong việc xây dựng một
nền văn hóa mang tính khoa học: khoa học trong tư duy, trong nếp sống,
trong việc đưa khoa học thâm nhập sâu vào sản xuất và mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội.
Về tính dân tộc cũng vậy. Văn hóa từ xưa tới nay
đều phải cắm rễ sâu vào đời sống cộng đồng dân tộc, nên nó cần được
giữ gìn và phát huy các giá trị vốn có. Nhiệm vụ đó phải được đặt ra ở
bất cứ thời kỳ lịch sử nào, dù trong cách mạng giải phóng dân tộc hay
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vấn đề dân tộc cũng là vấn
đề lịch sử, mang tính chất lịch sử.
Phương
châm dân tộc, khoa học và đại chúng của văn hóa mới Việt Nam đã góp
phần hình thành một thế hệ người Việt Nam mới mang khát vọng “Không có
gì quý hơn độc lập tự do”, có phẩm chất trung với nước, hiếu với dân,
nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào
cũng đánh thắng. |
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện
nay, khả năng đồng nhất hóa các nền văn hóa dân tộc theo mô hình văn
hóa tư sản là một nguy cơ có thật, đe dọa sự tồn tại của các quốc gia
dân tộc. Nhiều người đã nói tới âm mưu “Mỹ hóa các nền văn hóa” của các
quốc gia, có nghĩa là buộc các quốc gia quay lưng lại với những truyền
thống lâu đời của dân tộc mình để đi theo những “chuẩn mực” do Mỹ tạo
nên. Trước tình hình đó, để bảo vệ độc lập và chủ quyền quốc gia, hầu
hết các quốc gia dân tộc đều thấy cần thiết phải khẳng định bản sắc dân
tộc của nền văn hóa. Quay trở về khẳng định bản sắc văn hóa của dân tộc
đang là hiện tượng có tính quy luật ở thời đại chúng ta. Tuy vậy, việc
khẳng định bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam vẫn có nét đặc thù
riêng. Muốn phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải xây
dựng một nền văn hóa tiên tiến. Tính chất tiên tiến phải chỉ đạo việc
khai thác, bảo tồn, phát huy quảng bá bản sắc văn hóa dân tộc. Có nghĩa
là không vì giữ bản sắc dân tộc mà chúng ta làm sống lại tất cả những gì
đã có của quá khứ, kể cả những cái đã lỗi thời. Cũng không vì giữ bản
sắc dân tộc mà chúng ta đóng cửa, “dị ứng” với những cái hay, cái đẹp
của thế giới. Trái lại, nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc đòi
hỏi phải biết sàng lọc, phát huy những giá trị trường tồn, biết vượt
qua và khắc phục những truyền thống đã lỗi thời và thường xuyên tiếp
nhận, bổ sung những giá trị mới của thời đại và của nhân loại.
Như
vậy đường lối xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc là sự tiếp nối những nguyên tắc, phương châm của nền
văn hóa mới mà 70 năm trước Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra. Sức sống
của
Đề cương văn hóa năm 1943 là ở đó. Trí tuệ và bản lĩnh văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng được khẳng định từ đó.
2-
Đến Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, Đảng ta đã xác định
quan điểm và hoạch định đường lối phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Coi văn hóa là nền tảng tinh thần, là động
lực và mục tiêu của sự phát triển. Nhưng trên thực tế, sự phát triển
của văn hóa như mong muốn và khát vọng của chúng ta lại đang đặt ra
nhiều vấn đề có tính cấp bách.
Vấn đề đặt ra hiện nay là phải đánh giá một cách khách quan và nghiêm túc hiệu quả của đường lối và các quan điểm đó.
Câu hỏi cần được đặt ra là vì sao đường lối và quan điểm đúng đó vẫn
chưa đi được vào cuộc sống như chúng ta mong đợi? Phải chăng do chưa có
đủ chế tài cần thiết để hiện thực hóa đường lối và các quan điểm đó?
Phải chăng đã có một số chính sách ban hành nhưng chưa quán triệt sâu
sắc đường lối và các quan điểm của Đảng và chưa phù hợp với thực tiễn
vốn vô cùng sinh động? Đội ngũ tham mưu cho việc xây dựng các chủ
trương, chính sách đó đã đủ tầm chưa?...
Ta đang phấn đấu xây
dựng nền văn hóa tiên tiến. Nhưng có một thực tế, trong nhiều năm nay,
hiện tượng mê tín dị đoan đang có cơ trỗi dậy trong một bộ phận xã hội,
thậm chí trong đó có cả cán bộ, đảng viên. Hiện tượng này là không bình
thường. Cần phân biệt rõ văn hóa tâm linh với mê tín dị đoan. Phải chăng
vấn đề này còn bị bỏ ngỏ? Nếu không được khắc phục thì các thế hệ công
dân hôm nay và mai sau có thể tiếp nối con đường cách mạng vẻ vang của
các bậc cha anh không? Việc xây dựng và tôn tạo các di tích lịch sử, văn
hóa và cách mạng, việc tổ chức các lễ hội truyền thống đòi hỏi phải có
những quy định, những nghi thức vừa tôn nghiêm, vừa lành mạnh, nhằm giáo
dục tinh thần tự hào và biết ơn công đức của tổ tiên, của các bậc tiên
hiền. Phải tuyên truyền và giáo dục tư duy khoa học, chống mọi biểu hiện
mê tín dị đoan. Về vấn đề này, trước hết các cán bộ, đảng viên phải
thực sự gương mẫu.
Phương châm xã hội hóa trong các lĩnh vực văn
hóa là phương châm rất đúng, nhằm phát huy nguồn lực, sự tham gia đóng
góp của mọi tầng lớp xã hội. Tuy vậy, trong thực tế, có lúc, có nơi đã
hiểu sai cách làm này, thậm chí lạm dụng nó để giảm bớt trách nhiệm của
Nhà nước đối với việc nâng cao mức hưởng thụ và khuyến khích sáng tạo
của các chủ thể văn hóa là người dân.
Từ những ngày đầu cách mạng
và qua hai cuộc kháng chiến, chúng ta đã thực hiện một cách rộng rãi
quyền và trách nhiệm học tập đối với mọi người dân. Trong hoàn cảnh vô
cùng khó khăn và thiếu thốn, chúng ta đã thực hiện chính sách miễn thu
học phí và viện phí. Nhờ đó trong một thời gian rất ngắn, trình độ học
vấn của nhân dân ta được nâng cao. Năm 1976 Liên hợp quốc xếp Việt Nam
vào khối A (khối các nước có trình độ học vấn xã hội cao). Ngày nay thì
sao? Có lẽ nào tình hình kinh tế của đất nước hiện nay lại khó khăn hơn
những năm sau cách mạng và trong kháng chiến? Theo thống kê, trung bình
các gia đình phải chi gần 30% thu nhập cho việc học tập của con cái. Đó
thực sự là gánh nặng của người dân. Ấy là chưa nói đến việc chất lượng
giáo dục suy giảm. Trước đây đã đôi lần ta mời các chuyên gia giáo dục
của các trường đại học một số nước phát triển để tham khảo ý kiến. Những
chuyên gia đó có thể có một số gợi ý bổ ích về một vài phương diện nào
đó. Nhưng về đại thể, để hiểu nền giáo dục Việt Nam và con đường phát
triển giáo dục nước ta, phải là người Việt Nam, đặc biệt những người đã
trực tiếp tham gia sự nghiệp giáo dục qua hai cuộc kháng chiến. Họ sẽ là
những người giúp chúng ta rút ra những bài học quý báu mà Chủ tịch Hồ
Chi Minh và Đảng ta đã trực tiếp chỉ đạo nền giáo dục của đất nước trong
hoàn cảnh đầy khó khăn. Đừng quên một thực tế đã và đang diễn ra: nền
giáo dục qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
chính là “vườn ươm” của những tài năng lớn của đất nước hiện nay. Đó là
các nhà khoa học “đầu đàn” trên các lĩnh vực khoa học, giáo dục, y tế
(không ít người trong số đó đã nổi tiếng trên thế giới). Đó còn là các
nhà lãnh đạo và quản lý xã hội, là các anh hùng, chiến sĩ thi đua trên
lĩnh vực sản xuất và chiến đấu, là một số doanh nhân khá thành đạt. Hiện
nay hầu hết các tài năng ấy đã nghỉ hưu, và, thực tế là đang tạo nên
những khoảng trống, những hụt hẫng khá lớn, nhất là trong các trường đại
học, viện nghiên cứu, bệnh viện trọng điểm. Tình hình đó đòi hỏi một sự
đổi mới toàn diện sự nghiệp giáo dục đất nước, từ mô hình của nền giáo
dục, các chính sách về giáo dục, hệ thống chương trình, mục tiêu và
phương pháp đào tạo. Những công việc đó không thể khoán trắng cho xã
hội, mà chủ yếu phải được điều chỉnh bằng cơ chế, chính sách của Nhà
nước kết hợp với huy động nguồn lực tổng hợp của toàn xã hội.
Sự
nghiệp xây dựng nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay
đang thường xuyên chịu sự tác động của những mặt trái của kinh tế thị
trường và toàn cầu hóa; là xu thế đô thị hóa, là khoảng cách “doãng ra”
về giàu, nghèo trong cộng đồng xã hội.
Để phát triển văn hóa
trong cơ chế kinh tế thị trường đòi hỏi phải giải quyết tốt mối quan hệ
giữa văn hóa với thị trường và hàng hóa. Các sản phẩm văn hóa phải được
đưa vào thị trường và phải là những hàng hóa thực thụ có chất lượng và
đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Vấn đề ở chỗ thị trường đó là thị
trường gì? Và cái hàng hóa văn hóa nghệ thuật phải là hàng hóa như thế
nào? Những câu hỏi này dường như chưa được trả lời thấu đáo.
Xã
hội từ lâu vẫn phân biệt về các loại/giai đoạn của thị trường (văn minh
và thị trường sơ khai). Chỉ có thị trường văn minh mới có tác động tích
cực đối với sự phát triển kinh tế và xã hội. Ngay ở nước ta hiện nay,
chẳng hạn trên lĩnh vực kinh doanh sách, nhạc, cũng có loại thị trường
sơ khai và thị trường văn minh. Quanh các phố ở Thủ đô Hà Nội, có rất
nhiều tụ điểm bán sách vỉa hè, ở đó không có khái niệm sách tốt, xấu,
người mua cũng khó phân biệt sách trong luồng hay ngoài luồng, thậm chí
còn khó xác định là nhà xuất bản nào đã in các cuốn sách đó. Trong sự
hỗn độn đó của thị trường sách thì có những điểm sáng, như Nhà sách
Thăng Long, Quân khu 7... Hơn 10 năm qua các nhà sách này đã liên kết
với các nhà xuất bản lớn ở trong nước, in và phát hành những loại sách
có giá trị trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Sản phẩm hàng hóa
của họ đến được với các trường đại học, các thư viện tỉnh, đến vùng sâu,
vùng xa... Qua cách làm của Nhà sách Thăng Long, chúng ta thấy xuất
hiện một mô hình thị trường sách lành mạnh đã ra đời. Ở đây, doanh thu
và lợi nhuận không phải là mục tiêu duy nhất. Qua hoạt động kinh doanh
của mình, Nhà sách Thăng Long hướng tới việc nâng cao văn hóa đọc trong
nhân dân, tổ chức xuất bản các tác phẩm có giá trị và đưa các tác phẩm
đó đến với bạn đọc (thông qua các hội chợ sách, triển lãm sách và các
hình thức bán hàng khác).
Thị trường văn hóa rất cần thiết để
kích thích sự sản xuất, sáng tạo các giá trị văn hóa và thúc đẩy sự tiêu
dùng văn hóa. Sự phát triển thị trường văn hóa cũng có thể mang lại
doanh thu lớn cho đất nước. Tuy vậy xu hướng thương mại hóa lại đối
nghịch với sự sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật. Cách đây dăm bảy năm
chúng ta lên tiếng phê phán xu hướng thương mại hóa các hoạt động văn
hóa, giáo dục,... Hiện nay lại ít nói đến chuyện đó. Vậy nguyên nhân từ
đâu? Phải chăng người ta đã đồng nhất khái niệm thị trường văn hóa với
thương mại hóa văn hóa. Thực ra đây là hai vấn đề. Nói thị trường văn
hóa là nói đến một thực thể kinh tế giúp cho sự vận hành các hoạt động
sáng tạo và tiêu dùng văn hóa được diễn ra một cách thuận lợi trong xã
hội hiện đại. Còn thương mại hóa văn hóa là một xu hướng, một cách làm
tước bỏ các giá trị tinh thần cao quý vốn được kết tinh trong các sản
phẩm văn hóa mà chỉ nhằm giữ lại các giá trị vật chất và gia tăng giá
trị lợi ích đơn thuần. Với ý nghĩa trên, thị trường văn hóa là cần thiết
cho văn hóa phát triển, còn thương mại hóa văn hóa lại giết chết sự
sáng tạo văn hóa.
Ở nước ta hiện nay, trong khi thị trường văn
hóa chưa được hình thành rõ nét, thị trường văn hóa sơ khai còn phổ biến
và nằm ngoài sự kiểm soát của Nhà nước thì xu hướng thương mại hóa văn
hóa đã ăn sâu vào các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, giáo dục và đào
tạo,… đang gây nên hệ lụy khó lường. Tình hình đó đòi hỏi những chủ
trương, chính sách sáng suốt, kiên quyết nhằm xây dựng thị trường văn
hóa lành mạnh và chống xu hướng thương mại hóa các hoạt động văn hóa.
Cho
đến nay, ở khu vực văn hóa nông thôn vẫn là hậu phương quan trọng của
sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa của đất nước. Địa bàn nông thôn
rộng lớn, số dân sống ở nông thôn đông, những giá trị truyền thống lâu
đời của dân tộc vẫn đang được lưu giữ chủ yếu ở khu vực nông thôn. Văn
hóa nông thôn hiện đang rơi vào tình trạng khủng hoảng. Tính cố kết
truyền thống - vốn là điểm mạnh của văn hóa nước ta đang đứng trước nguy
cơ bị phá vỡ. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước chúng ta
đã khôi phục được một phần những sự cố kết đó. Nhờ vậy, đời sống nông
thôn đã có sinh khí hơn, đó cũng là một nguồn lực quan trọng để kháng
chiến. Những năm gần đây, bước vào kinh tế thị trường, đặc biệt là xu
thế đô thị hóa lại làm tăng tính phân hóa trong xã hội nông thôn, tính
cố kết cộng đồng bị suy yếu. Nhiều giá trị tinh thần truyền thống bị coi
nhẹ trong cơn lốc của mặt trái kinh tế thị trường. Cũng do đô thị hóa,
một bộ phận nông dân thiếu đất để sản xuất, trở thành vô nghề nghiệp.
Khi văn hóa nông thôn bị suy thoái thì đời sống văn hóa của thành thị,
và nói rộng ra, của cả nước, không thể phát triển lành mạnh được. Chúng
ta đang rất cần có biện pháp thúc đẩy đủ mạnh để chương trình lồng ghép
xây dựng nông thôn mới và xây dựng văn hóa nông thôn phát triển. Cũng
nên coi đây là một hướng đột phá để vực dậy nền văn hóa dân tộc đang có
chiều hướng suy giảm.
Về văn hóa đô thị, cũng do quá trình đô thị
hóa diễn ra nhanh vượt ra ngoài sự quản lý của Nhà nước nên mọi chuẩn
bị về cơ sở vật chất và tinh thần cho văn hóa đô thị hầu như quá muộn.
Khá đông nông dân nhập cư về thành phố và nhanh chóng trở thành cư dân
đô thị, dẫn tới tình trạng vừa mất gốc, vừa ngỡ ngàng. Tính tiên phong
của văn hóa đô thị chưa xuất hiện (hoặc nếu đã xuất hiện thì còn rất lẻ
tẻ và yếu ớt).
3- Trước tình hình trên về văn hóa, xã hội chúng
ta phải trở về với những quan điểm đã được đặt ra trong Đề cương văn hóa
năm 1943, nhìn thấy rõ hơn những giá trị soi đường, tác dụng định hướng
của Đề cương; qua đó nhận thức đúng hơn nghĩa vụ và trách nhiệm công
dân đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn mới. Chúng ta cần tiếp tục
nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa, văn nghệ cách mạng;
coi sự nghiệp phát triển văn hóa, văn nghệ là trách nhiệm của toàn Đảng,
toàn dân; đầu tư cho văn hóa, văn nghệ là đầu tư cho con người và cho
phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Giữ gìn, phát huy truyền thống văn
hóa dân tộc; đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch, đầu tư ngân sách xây
dựng, phát triển các thiết chế văn hóa, công trình văn hóa mới; tích
cực đào tạo, bồi dưỡng, phát huy các tài năng văn hóa, nghệ thuật; kích
thích, khơi dậy tiềm năng sáng tạo của nhân dân cũng như đổi mới công
tác quản lý các hoạt động trong lĩnh vực này. Đẩy mạnh và thực hiện tốt
chủ trương xã hội hóa hoạt động văn hóa, nghệ thuật; phương châm “Nhà
nước và nhân dân cùng làm” là một giải pháp tích cực; tạo ra động lực
mới khuyến khích sự đóng góp sức người, tiền của từ các doanh nghiệp, tổ
chức xã hội và nhân dân để phát triển văn hóa, nghệ thuật. Quan tâm
khuyến khích các văn nghệ sĩ lao động sáng tạo để có nhiều tác phẩm,
công trình có chất lượng tốt, có tiếng vang và tầm ảnh hưởng sâu rộng
trong xã hội, mang tầm vóc thời đại; có biện pháp tối ưu để giữ gìn,
phát huy các di sản văn hóa dân tộc. Đồng thời, tiếp tục sáng tạo, bồi
đắp, bổ sung những giá trị văn hóa mới, trên cơ sở mở rộng hợp tác, giao
lưu văn hóa với các nước; tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn,
khoa học, tinh hoa văn hóa, nghệ thuật nước ngoài để bổ sung, làm giàu
có bản sắc, tâm hồn, cốt cách, nhân cách người Việt Nam hiện đại, khắc
phục thái độ xem nhẹ vai trò văn hóa và các giá trị văn hóa truyền thống
của dân tộc. Bảy mươi năm đã trôi qua, hướng đi của văn hóa cách mạng
Việt Nam từ
Đề cương văn hóa năm 1943 vẫn tươi nguyên giá trị./.
GS,TS Trần Văn Bính
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh