Thực tế gần 30
năm qua cho thấy, đổi mới hệ thống chính trị nước ta là một đòi hỏi
khách quan và đây là một chủ trương đúng của Đảng. Các nghị quyết của
Đảng về đổi mới hệ thống chính trị, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 5 khóa IX “Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính
trị cơ sở xã, phường, thị trấn”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa X
“Về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan đảng, định hướng về
đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội”; Kết luận số 64-KL/TW, ngày 28-5-2013, của Hội nghị
Trung ương 7 khóa XI về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện
hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở” đã được triển khai thực hiện
nghiêm túc và thu được những kết quả quan trọng bước đầu.
Để
tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị, trước hết chúng ta cần
quán triệt sâu sắc các nghị quyết và kết luận của Trung ương Đảng về
đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị, nhất là Kết luận số 64-KL/TW,
trong đó tập trung vào những nội dung chính sau:
Đối với Đảng
-
Trong đổi mới hệ thống chính trị, phải giữ vững vai trò lãnh đạo, vị
thế cầm quyền của Đảng - đó là vấn đề có tính nguyên tắc, bất di, bất
dịch. Để bảo đảm được điều đó, phải làm tốt công tác xây dựng Đảng để
Đảng có đủ năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu trong mọi hoàn cảnh. Muốn
vậy, Đảng phải đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác -
Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế lịch sử, thực tiễn Việt
Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao
bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của toàn Đảng và của mỗi cán bộ,
đảng viên, trước hết là của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; không dao
động trong bất cứ tình huống nào. Kiên định đường lối đổi mới, chống
giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên
tắc.
-
Phải tiếp tục xây dựng Đảng trở thành một “đảng đạo đức, văn minh”,
cách mạng và khoa học, trong sạch và vững mạnh, thật sự vì lợi ích của
mỗi người dân và lợi ích của cả dân tộc, phấn đấu cho một xã hội của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; từng cán bộ, đảng viên của Đảng phải
là những người trung thành, tận tụy, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên
hạ”, “khổ trước thiên hạ, sướng sau thiên hạ”, xứng đáng vừa là người
lãnh đạo, vừa là người đầy tớ của nhân dân. “Mỗi cán bộ, đảng viên không
ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, thực sự là một tấm gương
về phẩm chất đạo đức, lối sống. Cán bộ cấp trên phải gương mẫu trước cán
bộ cấp dưới, đảng viên và nhân dân… Cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh
thần trách nhiệm trước Tổ quốc, trước Đảng và nhân dân, hết lòng, hết
sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Các tổ chức đảng tạo điều kiện
để đảng viên công tác, lao động có năng suất, chất lượng, hiệu quả, đóng
góp vào sự phát triển chung của đất nước. Đẩy mạnh tự phê bình và phê
bình trong sinh hoạt Đảng”(1).
-
Với tư cách là thủ lĩnh chính trị, được nhân dân ủy thác, Đảng phải đưa
ra được những quyết sách chính trị đúng đắn, khoa học, khách quan, phù
hợp, hướng vào mục tiêu vì hạnh phúc của nhân dân. Vì vậy, phải “Tăng
cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề
về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta và những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới,
không ngừng phát triển lý luận, đề ra đường lối và chủ trương đáp ứng
yêu cầu phát triển đất nước; khắc phục một số mặt lạc hậu, yếu kém của
công tác nghiên cứu lý luận”(2).
-
Chăm lo xây dựng, củng cố, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng
“như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Giữ vững và thực hiện nghiêm túc
nguyên tắc tập trung dân chủ. Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ
máy của Đảng; kiện toàn tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng
viên.
-
Chăm lo thật tốt “công việc gốc của Đảng” - công tác cán bộ, ở tất cả
các khâu, công đoạn, bảo đảm đúng quy trình, dân chủ, khách quan, để
chọn được những người xứng đáng, đúng là tinh hoa của tập thể, được tập
thể suy tôn. Đó là những cán bộ vững vàng về lập trường chính trị, có
tinh thần trách nhiệm cao trong công tác, có thái độ tôn trọng luật pháp
và thực sự “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”. “Tiếp tục đổi mới
mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ. Thực hiện tốt chiến lược cán bộ thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đổi mới tư duy, cách làm,
khắc phục những yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ. Xây dựng và
thực hiện nghiêm các cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ; trọng dụng những người có đức, có tài… Đánh giá và sử
dụng đúng cán bộ trên cơ sở những tiêu chuẩn, quy trình đã được bổ
sung, hoàn thiện, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân
dân làm thước đo chủ yếu… Đổi mới, trẻ hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo và
quản lý, kết hợp các độ tuổi, bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát
triển”(3).
-
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị theo hướng dân chủ, hiệu quả. Tập
trung lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân đủ mạnh, với hệ thống luật pháp mang đặc
trưng đó ngày càng hoàn chỉnh, đồng bộ.
-
Đảng thật sự tôn trọng dân chủ, phát huy có hiệu quả trong thực tế vai
trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trên mọi
phương diện thuộc chức năng của các tổ chức này, đồng thời đổi mới tổ
chức và phương thức hoạt động của chúng; khắc phục tình trạng hành chính
hóa. “Tập trung rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng
đồng bộ hệ thống các quy chế, quy định, quy trình công tác để tiếp tục
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống
chính trị. Khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng
lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước… Đổi mới phong cách, lề lối làm
việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ trung ương đến địa phương, cơ
sở… Đổi mới cách ra nghị quyết, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực
hiện, kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết của Đảng.
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong Đảng, khắc phục tình trạng
rườm rà, bất hợp lý về thủ tục, giảm bớt giấy tờ, hội họp; sâu sát thực
tế, cơ sở; nói đi đôi với làm”(4).
-
Chăm lo nâng cao trình độ dân trí, nhất là trình độ văn hóa pháp lý,
văn hóa dân chủ, văn hóa chính trị, nhằm làm cho nhân dân lao động hiểu
biết và sử dụng quyền dân chủ, thực hành dân chủ một cách đúng đắn, hiệu
quả.
Đối với Nhà nước
1-
Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng; thực hiện với hiệu quả cao chức
năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội; giải quyết tốt mối quan hệ giữa
Nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, với nhân dân,
với thị trường. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ
cương trong hoạt động của Nhà nước, chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo đảm
quyền, lợi ích chính đáng của mọi người dân. Bổ sung các thể chế và cơ
chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tiếp tục xây dựng, từng bước hoàn
thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt
động và quyết định của các cơ quan công quyền.
2-
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Trước hết,
đối với Quốc hội, phải thực sự bảo đảm đây là cơ quan đại biểu cao nhất
của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Hoàn thiện cơ chế bầu
cử Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp để cử tri làm chủ quá trình lựa
chọn và bầu để chọn được những người thực sự xứng đáng vào Quốc hội và
hội đồng nhân dân các cấp. Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, hội
đồng nhân dân các cấp; có cơ chế để đại biểu Quốc hội gắn bó chặt chẽ và
có trách nhiệm với cử tri. Cải tiến, nâng cao chất lượng hoạt động của
Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội, chất lượng hoạt động của
đại biểu Quốc hội và đoàn đại biểu Quốc hội. Nghiên cứu, giao quyền chất
vấn cho Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội. Tiếp tục phát huy
dân chủ, tính công khai, đối thoại trong thảo luận, hoạt động chất vấn
tại diễn đàn Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp. Tiếp tục đổi mới và
nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật của Quốc hội, trước hết
là quy trình xây dựng luật, pháp lệnh; luật, pháp lệnh cần tăng tính cụ
thể, tính khả thi để đưa nhanh vào cuộc sống. Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ
của Quốc hội trong quyết định và giám sát các vấn đề quan trọng của đất
nước, nhất là các công trình trọng điểm của quốc gia, việc phân bổ và
thực hiện ngân sách; giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp, công
tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
-
Hoàn thiện chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp và pháp luật nhằm xác
định rõ và cụ thể hơn quyền hạn, trách nhiệm của Chủ tịch nước là người
đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại, thống lĩnh
các lực lượng vũ trang; quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Nghiên cứu làm rõ quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo
của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với Chủ tịch nước theo tinh thần Kết
luận số 64-KL/TW của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI.
-
Tiếp tục đổi mới hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng nền hành
chính trong sạch, vững mạnh, quản lý thống nhất, thông suốt, tinh gọn,
hợp lý; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước,
khắc phục tình trạng buông lỏng trên một số lĩnh vực.
Phát
huy vai trò, trách nhiệm của tập thể Chính phủ, đồng thời đề cao trách
nhiệm cá nhân của Thủ tướng Chính phủ và các thành viên Chính phủ. Điều
chỉnh, bổ sung, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các bộ, ngành tập
trung vào quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, khắc phục những chồng chéo
hoặc bỏ trống về chức năng, nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng quản lý; làm
rõ mối quan hệ phối hợp giữa các bộ, cơ quan ngang bộ; bảo đảm nguyên
tắc một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách
nhiệm chính. Hoàn thiện cơ chế phân cấp theo hướng tăng tính tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương, đồng thời bảo đảm sự quản
lý thống nhất của Trung ương. Nghiên cứu việc thành lập tổ chức thực
hiện chức năng chủ sở hữu, quản lý, giám sát hoạt động của các doanh
nghiệp nhà nước.
Đổi
mới mạnh mẽ tổ chức và cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công
để cung ứng tốt hơn các dịch vụ cơ bản thiết yếu cho người dân, nhất là
các đối tượng chính sách xã hội, người nghèo. Nhà nước tăng cường đầu tư
cho các đơn vị sự nghiệp công lập ở vùng sâu, vùng xa, địa bàn khó
khăn. Tiếp tục đẩy mạnh giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các
đơn vị sự nghiệp công lập gắn với tăng cường chức năng quản lý của Nhà
nước. Đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích thành lập các tổ chức cung ứng
dịch vụ công thuộc các thành phần ngoài Nhà nước trên cơ sở các định
mức, tiêu chuẩn, các quy định của pháp luật và sự kiểm tra, giám sát của
các cơ quan nhà nước và nhân dân.
-
Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính; giảm mạnh và
bãi bỏ các loại thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân.
Nâng cao năng lực, chất lượng xây dựng và tổ chức thực hiện các cơ chế,
chính sách. Đẩy mạnh xã hội hóa các loại dịch vụ công phù hợp với cơ
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
-
Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây
dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng
và bảo vệ quyền con người. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về hình sự,
dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp và về tổ chức bộ máy các cơ quan tư
pháp, bảo đảm tính khoa học, đồng bộ, đề cao tính độc lập, khách quan,
tuân thủ pháp luật của từng cơ quan và chức danh tư pháp. Sắp xếp, kiện
toàn tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu
mối; xác định rõ hoạt động điều tra theo tố tụng và hoạt động trinh sát
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tiếp tục đổi mới và kiện toàn các
tổ chức bổ trợ tư pháp. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo
đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp. Tăng cường
các cơ chế giám sát, bảo đảm sự tham gia giám sát của nhân dân đối với
hoạt động tư pháp.
-
Đối với chính quyền địa phương, hoàn thiện tổ chức bộ máy chính quyền
cấp tỉnh, cấp huyện theo hướng quy định khung các cơ quan chuyên môn
giúp việc cho ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện; căn cứ điều kiện cụ
thể, tiêu chí và quy định khung của Chính phủ, địa phương có thể lập
(hoặc không lập) cơ quan, tổ chức đặc thù. Rà soát, điều chỉnh, khắc
phục những chồng chéo, không rõ về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan
chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, giữa ủy ban nhân
dân cấp huyện với các sở, ngành cấp tỉnh. Thực hiện mô hình bí thư cấp
ủy đồng thời là chủ tịch hội đồng nhân dân các cấp; bí thư cấp ủy đồng
thời là chủ tịch ủy ban nhân dân ở cấp xã, cấp huyện đối với những nơi
có đủ điều kiện. Thực hiện chủ trương bố trí một số chức danh cán bộ chủ
chốt không phải là người địa phương.
-
Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức để nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức, có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ,
năng lực, kỹ năng công tác; kết hợp đào tạo, bồi dưỡng với luân chuyển
để rèn luyện trong thực tiễn. Xây dựng đội ngũ chuyên gia giỏi, nhất là
đội ngũ cán bộ, công chức tham mưu cấp chiến lược. Gắn chính sách tinh
giản biên chế với việc thực hiện cải cách chính sách tiền lương, nâng
cao thu nhập cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Có chính sách phù
hợp với đội ngũ chuyên gia, chính sách thu hút người tài vào làm việc
trong cơ quan của hệ thống chính trị; thu hút cán bộ trẻ, có trình độ
đại học về công tác ở cơ sở; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng quân nhân hoàn
thành nghĩa vụ quân sự, thanh niên ưu tú ở địa phương bổ sung cho đội
ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Thực hiện thi tuyển các chức danh quản lý ở
Trung ương (đến cấp vụ trưởng) và ở địa phương (đến cấp giám đốc sở) và
tương đương. Sửa đổi các quy định về tiêu chuẩn bằng cấp đối với cán
bộ, công chức theo hướng thiết thực, tránh hình thức và phù hợp với thực
tế.
Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội
-
Tiếp tục rà soát, kiện toàn tổ chức bộ máy của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội theo hướng tinh gọn, rõ chức năng, nhiệm vụ,
không chồng chéo. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước, cơ chế tài chính đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội, tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội tăng thêm tính tự chủ, chủ động hơn trong hoạt động,
không bị “hành chính hóa”, để gần dân, sát dân hơn.
-
Thực hiện có hiệu quả quy chế phối hợp, quy định về giám sát, phản biện
xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, cơ chế
để nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, chính quyền.
-
Quy định chặt chẽ về tổ chức và hoạt động của các hội theo nguyên tắc
tự nguyện, tự quản, tự bảo đảm kinh phí hoạt động và tuân thủ pháp luật.
Sửa đổi, bổ sung các quy định của Nhà nước về tổ chức quản lý, và hoạt
động hội phù hợp với tình hình mới./.
________________________________________
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr. 257, 258
(2) Văn kiện đã dẫn, tr. 255, 256
(3) Văn kiện đã dẫn, tr. 261, 262
(4) Văn kiện đã dẫn, tr. 264, 265
PGS, TS. Đoàn Thế Hanh
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(Nguồn TCCS)