Nguy cơ chiến tranh thế giới huỷ diệt bị đẩy lùi, nhưng xung đột vũ
trang, chiến tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo chạy
đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều
nơi.
Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ
ngày càng cao, tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền kinh tế và
đời sống xã hội.
Bối cảnh quốc tế nói trên, có ảnh hưởng lớn đến công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đến năm 1996, công cuộc đổi mới đã tiến hành được 10 năm và đạt
được nhiều thành tựu quan trọng về mọi mặt. Đất nước thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội, cải thiện một bước đời sống vật chất của đông
đảo nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh được củng
cố. Đồng thời, thành tựu 10 năm đổi mới đã tạo được nhiều tiền đề cần
thiết cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bên cạnh những thành tựu dạt được, nước ta cũng phải đối đầu với
nhiều thách thức như nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế, “diễn biến hoà
bình”; tệ quan liêu, tham nhũng; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Tình hình thế giới và thực tiễn công cuộc đổi mới đặt ra cho Đảng ta
những nhiệm vụ và bước đi mới.
Trong hoàn cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng
Cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày 28-6 đến 1-7-1996, tại Hội trường Ba
Đình, Hà Nội. Dự Đại hội có 1.198 đảng viên đại diện cho gần 2 triệu 130
nghìn đảng viên trong cả nước.
Sau bốn ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, Đại hội đã thông qua những văn kiện quan trọng sau đây:
1. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII.
2. Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996-2000.
3. Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi).
4. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam.
Các văn kiện nêu trên bao gồm những nội dung cơ bản sau:
Báo cáo Chính trị đã đánh giá 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội VII như sau:
Về thành tựu, văn kiện khẳng định chúng ta đã giành được 5 thành tựu quan trọng:
l. Đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, hoàn thành vượt mức nhiều mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm.
2.Tạo được mọt số chuyển biến tích cực về mặt xã hội.
3. Giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh.
4. Thực hiện có hiệu quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị.
5. Phát triển mạnh mối quan hệ đối ngoại, phá thế bao vây cấm vận, tham gia tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế.
Cùng với việc đánh giá đóng thành tựu, Đảng ta cũng chỉ rõ những khuyết điểm và yếu kém:
1. Nước ta còn nghèo và kém phát triển. Chúng ta chưa thực hiện
tốt cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, dồn vốn cho đầu
tư phát triển.
Nhà nước còn thiếu chính sách để huy động có hiệu quả nguồn vốn
trong dân. Sử dụng nguồn lực còn phân tán, kém hiệu quả, chưa kiên quyết
tập trung cho các chương trình, dự án kinh tế - xã hội cấp thiết.
2. Tình hình xã hội còn nhiều vấn đề tiêu cực và nhiều vấn đề
phải giải quyết. Nạn tham nhũng, buôn lậu, lãng phí của công chưa ngăn
chặn được. Tiêu cực trong bộ máy nhà nước, đảng và đoàn thể, trong các
doanh nghiệp nhà nước, nhất là trên các lĩnh vực nhà đất, xây dựng cơ
bản, hợp tác đầu tư, thuế, xuất nhập khẩu... nghiên trọng kéo dài. Việc
làm đang là vấn đề gay gắt. Sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, giữa
thành thị và nông thôn và giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh.
3. Việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới có phần vừa lúng
túng vừa buông lỏng. Chậm tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế, chính sách
để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhà nước nâng cao hiệu quả
hoạt động, phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Chưa
quan tâm tổng kết thực tiễn.
4. Quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội, các hoạt động khoa học
và công nghệ, bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh thái, giáo dục, đào
tạo, thông tin, báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ chưa tốt.
5. Hệ thống chính trị còn nhiều nhược điểm. Năng lực và hiệu quả
lãnh đại của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước, hiệu quả
hoạt động của các đoàn thể chính trị, xã hội chưa nâng lên kịp với đòi
hỏi của tình hình.
Đánh giá tổng quát sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn
diện và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII Báo cáo Chính trị khẳng
định đất nước đã vượt qua một giai đoạn thử thách gay go và đạt những
thắng lợi nổi bật trên nhiều mặt.
“Công cuộc đổi mới trong 10 năm qua đã thu được những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII, đề ra cho 5
năm 1991-1995 đã được hoàn thành về cơ bản.
Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc.
Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn
bị những tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành cho phép
chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trên cơ sở phân tích những đặc điểm nổi bật của tình hình thế
giới, những xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế, nêu rõ những thời cơ
và thách thức lớn, Đại hội định ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2000 và
2020 của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là:
tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dựng nước
ta thành một nước công nghiệp có cơ sở - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh
tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh
vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Từ nay đến 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”.
Trên cơ sở mục tiêu tổng quát, Đại hội chỉ rõ nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của giai đoạn 1996-2000 là:
Tập trung sức cho mục tiêu phát triển, đến năm 2000, GDP bình
quân đầu người tăng gấp đôi năm 1990. Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân
hằng năm đạt khoảng 9-10%.
Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, gắn với công nghiệp
chế biến nông, lâm, thuỷ sản và đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tốc độ tăng giá trị sản xuất nông,
lâm, ngư nghiệp bình quân hằng năm 4,5-5%.
Phát triển các ngành công nghiệp, chú trọng trước hết công
nghiệp chế biến, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; xây
dựng.có chọn lọc một số cơ sỏ công nghiệp nặng về dầu khí, than, xi
măng, cơ khí, điện tử, thép, phân bón, hoá chất, một số cơ sở công
nghiệp quốc phòng. Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân
hằng năm 14-15%.
Đến năm 2000, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng chiếm khoảng 34-35% trong GDP; nông, lâm, ngư nghiệp chiếm khoảng 45-46%.
Tăng nhanh khả năng và tiềm lực tài chính của đất nước, lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Giải quyết tốt một số vấn đề xã hội.
Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh
của Tổ quốc, giữ vững ổn định chính trị và an toàn xã hội, bảo đảm quốc
phòng, an ninh vững mạnh, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống.
Tích cực chuẩn bị và tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển
cao hơn sau năm 2000, chủ yếu là phát triển nguồn nhân lực, nâng cao
năng lực khoa học và công nghệ, xây dựng kết cấu hạ tầng và một số công
trình công nghiệp then chốt, hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các nhiệm vụ và mục tiêu nêu trên phải được thực hiện theo các định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu.
- Phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại
hoá trong những năm còn lại của thập kỷ 90 là: Đặc biệt coi trọng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn; phát triển toàn diện
nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản;
phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Mở
rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ. Đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối
ngoại. Hình thành dần một số ngành mũi nhọn như chế biến nông, lâm,
thuỷ sản, khai thác và chế biến dầu khí, một số ngành cơ khí chế tạo,
công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, du lịch. Phát triển mạnh sự
nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ.
- Xác định các chính sách đối với các thành phần kinh tế, bao
gồm: kinh tế nhà nước; kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các hợp tác xã;
kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư
nhân.
- Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
- Phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo. Đảng
chủ trương phát triển mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục và đào tạo, cùng với
khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Coi trọng cả quy
mô, chất lượng và hiệu quả giáo dục và đào tạo.
- Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đại
hội khẳng định, văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu
vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động
văn hoá, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng,
đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hoá lành
mạnh cho sự phát triển xã hội.
- Chính sách giải quyết một số vấn đề xã hội theo quan điểm:
tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển; khuyến khích làm
giàu hợp phát đi đôi với tích cực xoá đói giảm nghèo. Thu hẹp dần khoảng
cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, các dân tộc,
các tầng lớp dân cư; phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc “uống
nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, nhân hậu thuỷ chung.
- Tăng cường quốc phòng an ninh. Đại hội xác định nhiệm vụ về
quốc phòng, an ninh trong những năm tới là: phát huy sức mạnh tổng hợp
của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, từng bước tăng cường tiềm lực
quốc phòng và an ninh của đất nước, xây dựng vững chắc nền quốc phòng
toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân và
thế trận an ninh nhân dân, nâng cao chất lượng các lực lượng vũ trang,
bảo vệ vững chắc độc lập, an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
đất nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa;
ngăn ngừa và làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động gây mất ổn định chính
trị xã hội, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, gây tổn hại
cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
- Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng
mở, đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại với tinh thần
Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn
đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Mở rộng quan hệ đối ngoại nhân
dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ, tranh thủ sự đồng tình và
ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp phần thúc đẩy xu thế hoà
bình, hợp tác, phát triển.
- Thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân.
- Tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo các quan điểm: xây dựng Nhà
nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; lấy liên minh công
nông và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Về công tác xây dựng Đảng, Báo cáo Chính trị khẳng định, toàn bộ
thành tựu và khuyết điểm của công cuộc đổi mới gắn liền với trách nhiệm
lãnh đạo và hoạt động của Đảng. Sự lãnh đạo và hoạt động của Đảng là
một nhân tố quyết định tạo ra những thành tựu đổi mới.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn
còn nổi lên một số vấn đề lớn như: sự tác động của cơ chế thị trường và
hoạt động chống phá của kẻ thù làm một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm
sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, sa đoạ về đạo đức lối sống, một
số thoái hoá biến chất về chính trị; trình độ, kiến thức, năng lực lãnh
đạo của Đảng có mặt chưa theo kịp yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Để làm tốt vai trò lãnh đạo, Đảng phải tiếp tục tự đổi mới, tự
chỉnh đốn, nâng cao hơn nữa sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của mình,
khắc phục các khuyết điểm, các biểu hiện tiêu cực và yếu kém. Đảng phải
mạnh từ Trung ương đến cơ sở, ở tất cả các cấp, các ngành. Trong công
tác xây dựng Đảng phải thường xuyên nắm vững và quán triệt các nhiệm vụ
sau: giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân; nâng cao bản
lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng viên; kiện toàn hệ
thống tổ chức của Đảng, thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc tập trung dân
chủ; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, chủ trọng đội ngũ cán bộ chủ chốt
các cấp, chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ kế cận; nâng cao sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở Đảng; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Một vấn đề được nhấn mạnh trong các văn kiện Đại hội lần này là tăng cường và đổi mới công tác kiểm tra của Đảng.
Đại hội quyết định bổ sung và sửa đổi một số điểm cụ thể trong Điều lệ Đảng cho phù hợp với tình hình mới.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII bao gồm 170
uỷ viên. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư. Các đồng chí Nguyễn
Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương
Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng “có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng, đánh dấu cột mốc phát triển mới trong tiến trình phát
triển của cách mạng nước ta”. Đại hội VIII của Đảng là Đại hội tiếp tục
đổi mới vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân
dân. “Kết quả của Đại hội có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh dân tộc
và tương lai đất nước vào lúc chúng ta sắp bước vào thế kỷ XXI”.
TG