Trong thời gian gần đây, các phần tử dân tộc cực đoan, nhất là những kẻ đang sống lưu vong ở nước ngoài lợi dụng bản Tuyên ngôn quyền của người bản địa ráo riết vận động đồng bào các đân tộc thiểu số nước ta, trong đó có đồng bào Khmer đòi quyền tự quyết, rằng đó là những quyền đã được Liên hợp quốc tuyên bố. Họ xúi dục đồng bào ta đòi “tự do lập hội”, “ra báo độc lập”, ‘Thành lập giáo hội Phật giáo riêng của mình”…Trắng trợn hơn, họ còn đòi thừa nhận địa bàn cư trú của đồng bào Khmer là một lãnh thổ tự trị…Tất cả những điều chúng kêu gọi đều là hành động vi phạm pháp luật, nhằm gây mất ổn định chính trị- xã hội, chia rẽ dân tộc, phá họai khối đại đòa kết toàn dân, . … từng bước đi tới phá vỡ sự toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước của dân tộc ta.
Quyền dân tộc tự quyết ( The Rights of self determination ) và quyền của người bản địa ( The Rights Indigenous Peoples) là hai khái niệm tuy có quan hệ với nhau, song hoàn toàn khác nhau về nội dung nhất là ý nghĩa chính trị. Quyền dân tộc tự quyết là quyền của quốc gia- dân tộc, với tư cách là chủ thể của luật quốc tế . Còn quyền của người bản địa là những quyền của các dân tộc thiểu số ( Ethnic Minority), hoặc nhóm sắc tộc ( Race Grops) thường là những quyền về văn hóa- xã hội của một bộ phận dân cư trong lòng một quốc gia-dân tộc nào đó
Khái niệm “người bản địa”, có nguồn gốc lịch sử, gắn liền với thời kỳ chủ nghĩa đế quốc tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược, áp đặt sự thống trị của họ ở các quốc gia chậm phát triển. Chiến lược di dân khai thác thuộc địa tiếp nối các đội quân viễn chinh đã dẫn đến sự phân hoá, hình thành hai nhóm và hai tầng lớp xã hội ở những quốc gia này :
-Tầng lớp những người nước ngoài, bao gồm “các quan cai trị” cùng với những người di cư đến đây làm ăn , họ có mối quan hệ mật thiết với bộ máy cai trị của thực dân . Tầng lớp này thuộc đẳng cấp có nhiều đặc quyền, đặc lợi.
- Cộng đồng những người dân thuộc địa còn lại được gọi là những người “bản địa” hoặc “người bản xứ”, họ thuộc đẳng cấp thấp hèn.
Ở Việt Nam dưới sự cai trị của chủ nghĩa thực dân, không kể họ thuộc tầng lớp nào, dân tộc nào, là người giầu hay nghèo, là trí thức hay người lao động, là người Kinh, người Mường, người Tày, người Nùng, người Dao, người Ê Đê, người Gia Rai, người Khme hay người Mông … họ đều được gọi chung là những tên “Annammit” với nghĩa miệt thị, khinh bỉ. Nhiều hồi ký của các nhà cách mạng, các sĩ phu, các nhà trí thức chân chính đã ghi lại rằng sở dĩ họ tìm đến và đi theo cách mạng, ban đầu chính là vì họ không thể chịu đựng được những kẻ xâm lược đã xúc phạm nhân phẩm, danh dự gọi họ bằng cai tên Annammit.
Giả sử ở vào bối cảnh dân tộc ta còn nằm dưới ánh thống trị của chủ nghĩa thực dân, liệu những kẻ đang đòi “ quyền của người bản địa” có dám hung hăng như ngày nay không?
Ở nước ta, trước khi thực dân Pháp xâm lược, tất cả các dân tộc đều đã cùng nhau khai sơn, phá thạch, đổ không biết bao nhiêu mồ hôi, xương máu để xây dựng và giữ gìn mảnh đất này. Có thể nói, 54 dân tộc hiện đang sống trên Tổ quốc Việt Nam đều đã chôn nhau, cắt rốn, sinh sống trên mảnh đất này ngay từ buổi bình minh của lịch sử dân tộc. Nếu theo quan điểm : hễ dân tộc nào có mặt đầu tiên trên mảnh đất mà ngày nay họ đang sinh sống… là “người bản địa” thì tất cả 54 dân tộc anh em sống trên đất nước ta đều là người bản địa ! Họ đang ở cả Bắc,Trung, Nam, ở cả đồng bằng, trung du, miền núi . Họ có thể là người Nam Định, Thái Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Trị, Cao Bằng, Lạng Sơn, Cần Thơ, An Giang,…thậm chí cả ở thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh…tất cả họ đều là người bản địa, vì không ít con cháu của những người sinh ra ở đây vẫn đang sinh sống trên quê cha, đất tổ của mình! Cũng theo lập luận của họ thì tất cả 54 dân tộc đều có “quyền tự trị”- có lãnh địa, có thiết chế , có văn hóa, có tổ chức tôn giao riêng… thử hỏi nếu những đòi hỏi này được đáp ứng thì liệu dân tộc Việt Nam, Tổ quốc Việt Nam có còn nữa hay không ? Như vậy là, khái niệm “người bản địa” chỉ mới ra đời ở Việt Nam từ khi nước ta trở thành thuộc địa của chủ nghĩa thực dân và nó chỉ tồn tại với chế độ đó. Khái niệm này khác với khái niệm dân tộc thiểu số mà chúng ta thường dùng để phân biệt các dân tộc ít người với đồng bào Kinh
Ngày nay, khi nhân dân ta đã giành được độc lập, đất nước ta đã thống nhất, nhà nước ta là nhà nước của tất cả các dân tộc,… thì khái niệm “người bản địa” và “quyền của người bản địa” đã lùi về quá khứ. Thay cho khái niệm đó là khái niệm quyền công dân- là quyền của tất cả mọi người Việt Nam, không phân biệt họ là dân tộc thiểu số hay đa số. Đó là một sự thật lịch sử không ai có thể bác bỏ được. Đồng thời cũng không một dân tộc nào mong muốn điều đó tồn tại hoặc quay trở lại. Nhân đây cũng phải nói thêm rằng, nhờ có chính sách của Đảng và Nhà nước ta, sau Cách mạnh thành công, nhiều dân tộc thiểu số, có dân số rất nhỏ, chưa từng được phát hiện, đời sống hết sức khó khăn đã được chính quyền và quân đội giúp đỡ về mọi mặt. Ngày nay đồng bào đã có cuộc sống ổn định, no đủ, trong đó có đồng bao Rục, Cờ Ho…Để ghi nhớ công ơn cách mạng có dân tộc đã tự nhận họ Hồ là họ chung của cả dân tộc mình.
Không phủ nhận rằng, trong lịch sử hình thành các dân tộc, sau các cuộc chiến tranh xâm lược, di dân từ “chính quốc” đến thuộc địa…đã hình thành những quốc gia – dân tộc mới. Ở những quốc gia này vẫn tồn tại 2 nhóm xã hội: nhóm người từ nước ngoài, thường chiếm số đông và nhóm người bản xứ, thường là các nhóm dân tộc thiểu số ( Minority grop) hoặc các nhóm sắc tộc (Race grop). Những nhóm xã hội này thường vẫn muốn duy trì phong tục, tập quán, ngôn ngữ, lối sống riêng của mình. Có thể xem Hoa Kỳ, Canada và Úc là những ví dụ. Trong những quốc gia này, khái niệm “người bản địa” vẫn tồn tại và còn có những ý nghĩa nào đó. Ở Việt Nam, sau cách mạng cho đến nay hoàn toàn không có bối cảnh lịch sử cho sự tồn tại của khái niệm này.
Thật đáng tiếc, người ta không thể tìm thấy một khái niệm “người bản địa” được mọi người thừa nhận , đơn giản vì đó là một thuật ngữ xã hội chính trị. Cho đến nay, nhiều từ điển, nhiều tổ chức, kể cả Liên hợp quốc đã đưa ra những quan niệm khác nhau, thậm chí là mâu thuẫn với nhau về khái niệm này. Chính trong Tuyên ngôn nói trên cũng không đưa ra định nghĩa thế nào là người bản địa. Chính vì lý do đó nên người ta buộc phải thừa nhận “người bản địa” là một khái niệm “mở” theo nghĩa: một nhóm xã hội, một dân tộc nào đó có thể tự nhận hoặc phủ nhận mình là “người bản địa” … nếu quan niệm đó phù hợp với lợi ích của họ. Mặt khác, trong phạm vi quyền tài phán, một nhà nước, một chính phủ hoàn toàn có quyền thừa nhận hoặc phủ nhận một nhóm, một bộ phận dân cư, một dân tộc, sắc tộc nào đó là “người bản địa”, nếu điều đó là phù hợp với lợi ích của quốc gia- dân tộc đó.
Chống kẻ mạnh ức hiếp người yếu- nói theo thuật ngữ nhân quyền là bảo vệ quyền và lợi ích của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương là một giá trị nhân văn chung của tất cả các dân tộc, đồng thời cũng có thể xem là một nguyên tắc của Luật Nhân quyền và Luật Nhân đạo quốc tế
Sự ra đời một văn kiện quốc tế bảo vệ quyền của “người bản địa” là một ý tưởng nhân văn tiến bộ, tích cực. Nó sẽ rất hữu ích, được đánh giá cao hơn, nếu được đưa ra đúng thời điểm lịch sử - khi các dân tộc thuộc địa đang đứng lên đấu tranh với chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc.
Vào năm 1960, khi chủ nghĩa thực dân cũ đã sụp đổ từng mảng, Liên hợp quốc ra “Tuyên bố về trao trả độc lập cho các dân tộc”. Mặc dù đó là việc làm đã muộn, nhưng dù sao như người ta thường nói: “muộn còn hơn không”. Thái độ của Liên hợp quốc trong văn kiện này là khá rõ ràng. Tuyên bố nhấn mạnh rằng khi trao trả độc lập cho các dân tộc, không được phá vỡ sự toàn vẹn lãnh thổ và sự thống nhất của các quốc gia … Tuyên bố ghi: “Bất kỳ cố gắng nào nhằm gây phá vỡ toàn bộ hay một phần sự thống nhất quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của một đất nước là trái với mục tiêu và nguyên tắc của Liên hợp quốc”[1].
Công ước quốc tế “ Về các dân tộc và bộ tộc bản địa ở các quốc gia độc lập” đã ghi “các dân tộc trong các quốc gia độc lập “ được gọi trong Công ước này, không có nghĩa gắn với việc áp dụng tất cá các quyền liên quan đến khái niệm này trong Luật quốc tế”2 . Nói cụ thể hơn đó là quyền dân tộc tự quyết (sẽ được trình bầy ở phần sau). Những phần tử dân tộc cực đoan trong đó có một số phần tử Khmer Krom sống lưu vong ở nước ngoài, được chủ nghĩa đế quốc khuyến khích, giúp đỡ về chính trị và vật chất, đang vận động, xúi dục đồng bào các dân tộc thiểu số trong nước, trong đó có đồng bào Khmer đòi “quyền tự quyết”, với nhiều nội dung trái với Hiến pháp và Pháp luật Việt Nam. Hơn nữa chúng còn vu cáo Chính phủ Việt Nam đang thực hiện “chính sách đồng hoá” các dân tộc thiểu số trong đó có người Khmer Krom như ép họ phải “bỏ đạo, bỏ văn hoá dân tộc” để hoà nhập với “cuộc sống văn minh” của người Việt”. Họ còn lên mặt răn dạy: “Việt Nam đã bỏ phiếu thông qua Tuyên ngôn về những quyền của người dân bản địa” thì phải thực hiện quyền của người Khmer Krom v.v…
Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng; Hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước ta đối với các dân tộc là quang minh chính đại.
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm nhiều dân tộc cùng sinh sống, cùng nhau kề vai sát cánh trong suốt hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Mỗi dân tộc có phong tục, tập quán, văn hóa, lối sống riêng. Điều đó đã tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam - niềm tự hào của mỗi dân tộc và của cả dân tộc Việt Nam. Giữ gìn tính đa dạng và bản sắc của nền văn hóa Việt Nam trên cơ sở bảo đẩm quyền bình đẳng giữa các dân tộc là quyền, lợi ích, đồng thời là trách nhiệm của Nhà nước, của mỗi dân tộc và của mỗi người dân Việt Nam, không kể họ thuộc dân tộc nào. Quan điểm của Đảng ta đối với các dân tộc là :” Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển”1.
Điều 5 Hiến pháp (1992), nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định như sau: “ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam .
Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, …Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình.
Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vạt chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số. “
Tác giả bài này không có ý định làm mất nhiều thời gian của bạn đọc đưa ra các lập luận, chứng cứ nhất là những thành tựu trong việc thực hiện các chủ trương , chính sách của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số để bác bỏ những điều vu cáo của họ. Không phủ nhận rằng, ở đâu đó việt thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước có thể còn có nhiều thiếu sót, khuyết điểm; đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số, do hoàn cảnh lịch sử, do điều kiện địa lý…vẫn còn nhiều khó khăn …, song điều đó hoàn toàn không phải do chính sách phân biệt đối xử, càng không phải là bản chất của xã hội ta, nó tất yếu nó sẽ được khắc phục. Bài viết này không nhằm trình bày đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với các dân tộc thiểu số mà chỉ muốn làm sáng tỏ khái niệm “quyền của người bản địa” để vạch trần thủ đoạn lợi dụng, xuyên tạc bản Tuyên ngôn này của các phần tử phản động trong và ngoài nước.
Theo quan niệm của cộng đồng quốc tế, hay nói chính xác hơn, theo một số văn kiện nhân quyền của Liên hợp quốc, khái niệm “quyền của người bản địa”, quyền của của các dân tộc, sắc tộc hoặc “ người bản địa” là những nhóm dân cư trong một nước, khác với “quyền dân tộc tự quyết”, là quyền của cả quốc gia- dân tộc
Trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, 1966, quyền của “nhóm thiểu số về dân tộc, tôn giáo và ngôn ngữ” là quyền “có một đời sống văn hoá riêng, quyền được theo và thực hành tôn giáo riêng hoặc được sử dụng tiếng nói riêng”1. Nói tóm lại là những quyền thuộc nhóm quyền về văn hoá.
Trong khi đó “quyền dân tộc tự quyết” với tư cách là quyền của quốc gia-dân tộc, được ghi ( ở Điều 1) cũng trong Công ước nói trên được xác định ở ba nội dung cơ bản như sau:
- Quyền tự quyết về: “Thể chế chính trị”
- Quyền tự quyết về: Con đường hay “thể chế” phát triển kinh tế
- Quyền tự quyết định về: Tài nguyên thiên nhiên và của cải của mình.
Như vậy là “ quyền tự quyết “ của dân tộc, sắc tộc nào đó trong một quốc gia – dân tộc không được phép vượt ra ngoài khuôn khổ “ Quyền dân tộc tự quyết, không được xâm phạm quyền của cả quốc gia- dân tộc. Những đòi hỏi về “quyền tự quyết” mà người ta dựa vào “Tuyên ngôn về quyền của người bản địa”chẳng những vi phạm Hiến pháp, phát luật Việt Nam , mà còn trái với Hiến chương Liên hợp quốc, và Luật quốc tế về quyền con người. Về bản chất, những đòi hỏi của những lực lượng dân tộc cực đoan là một thủ đoạn chính trị nằm trong chiến lược của các thế lực thù địch nhằm phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, hoàn toàn không phải vì lợi ích của đồng bào các dân tộc thiểu số của chúng ta.
Bối cảnh chính trị thế giới từ thập niên cuối cùng của thế kỷ XX đến những năm đầu thế kỷ XXI khác xa với những thập niên giữa thế kỷ XX. Mục tiêu của cộng đồng quốc tế trong thế kỷ XXI là khắc phục tình trạng nghèo khổ, thiếu giáo dục, bình đẳng giới, tỉ lệ trẻ em tử vong cao, bệnh tật hiểm nghèo, và suy thoái môi trường … (Tuyên bố Thiên niên kỷ). Đồng thời các quốc gia dân tộc đang phải đối diện với chủ nghĩa khủng bố, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa tôn giáo cực đoan . Đối với các quốc gia- dân tộc mới giành được độc lập còn phải đối diện với âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc lợi dụng những vấn đề trên, kích động các lực lượng li khai, làm tổn hại đến khối đại đoàn kết toàn dân, sự toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất đất nước, làm suy yếu các quốc gia khiến các quốc gia này phải lệ thuộc vào họ
Để thực hiện những mục tiêu đó, cộng đồng quốc tế, cũng như các quốc gia, trước hết cần duy trì một môi trường hoà bình, ổn định để phát triển.
Tuyên ngôn về quyền của người bản địa là một văn kiện rất đáng trân trọng. Song chúng ta cần tỉnh táo, bảo vệ những giá trị cao quý của nó, đồng thời không mắc vào những thủ đoạn lừa dối, mỵ dân mà các lực lượng chính trị phản động đang xuyên tạc, lợi dụng, phục vụ cho những mưu đồ xấu xa, thâm độc của chúng./.
Bắc Hà
[1] Trung tâm nghiên cứu quyền con người, “Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người”; Hà Nội 2002, tr 25
2 Trung tâm nghiên cứu quyền con người SDD, tr 617
1- Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ Bẩy…khóa IX, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2003,tr 30
1 Trung tâm nghiên cứu quyền con người SDD, tr 261