Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một quốc gia nào xây dựng được một mô hình giải quyết hoàn hảo mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Đây cũng là vấn đề lý luận còn ý kiến khác nhau giữa các nhà kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là khái niệm để chỉ sự gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định và thường được đo bằng chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc dân (GNP). Tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Nó là tiền đề vật chất để giải quyết hàng loạt vấn đề, đặc biệt những vấn đề xã hội như xoá đói giảm nghèo, nâng cao mức sống của nhân dân, đảm bảo công ăn việc làm ổn định cho những người lao động. Tốc độ tăng trưởng nhanh có thể làm cho một quốc gia nghèo đuổi kịp và vượt qua quốc gia giàu có. Trong điều kiện toàn cầu hoá, các nước đang phát triển thường lựa chọn tăng trưởng kinh tế cao là mục tiêu hàng đầu.
* Tuy nhiên không phải cứ tăng trưởng kinh tế thì sẽ đem lại mọi điều tốt đẹp cho nền kinh tế và cuộc sống con người. Thực tế cho thấy tăng trưởng không hợp lý đôi khi dẫn đến trì trệ hoặc tăng trưởng theo kiểu “chăn thả” sẽ tác động xấu đến môi trường và huỷ diệt môi sinh. Vì vậy, thời gian gần đây khi bàn tới tăng trưởng thường gắn với phát triển.
Phát triển kinh tế có thể hiểu là một quá trình lớn lên về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định, trong đó bao gồm cả sự tăng thêm qui mô sản lượng (tăng trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tê' - xã hội. Báo cáo về phát triển thế giới 1992 đã khẳng định “phát triển là nâng cao phúc lợi của nhân dân, nâng cao tiêu chuẩn sống và cải tiến giáo dục, sức khoẻ và bình đẳng về cơ hội, là tất cả những thành phần cơ bản của phát triển kinh tế. Bảo đảm các quyền chính trị và công dân là một mục tiêu phát triển rộng hơn. Tăng trưởng kinh tế là cách cơ bản để có thể có được phát triển, nhưng bản thân nó chưa hoàn toàn phản ánh cho sự tiến bộ”.
Gần đây những nghiên cứu mới đã đưa ra khái niệm “phát triển bền vững” được xem như đỉnh cao của tư trưởng phát triển hiện nay. Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn thương đến khả năng đáp ứng các nhu cầu của thế hệ tương lai.
Từ những điều trình bày trên có thể nêu lên một số nhận xét:
- Cần phân biệt sự khác nhau giữa “tăng trưởng” và “phát triển”. Sự phân biệt này không phải là vấn đề thuật ngữ mà chính là vấn đề nhận thức về sự tiến bộ của mỗi quốc gia và rộng hơn là sự tiến bộ về nền văn minh thế giới.
- Điều rất quan trọng là cần thấy rõ quan hệ giữa “tăng trưởng” và “phát triển”: “tăng trưởng” chưa phải là “phát triển” nhưng không thể nói “phát triển” mà không có “tăng trưởng”.
“Phát triển” một cách đúng đắn nhất cần phải là “phát triển bền vững” . Đây là dòng tư duy chính hiện nay.
- Các nước chậm phát triển, các nước đang phát triển muốn đi nhanh trên con đường phát triển cần phải đặt trong khuôn khổ “phát triển bền vững thì mới không dẫn đến những hậu quả tiêu cực về xã hội và môi trường” .
Công bằng là một khát vọng mang tính bản năng của con người. Từ xa xưa nhân loại đã tìm kiếm một xã hội công bằng nhưng tới nay vẫn chưa đạt tới. Ngày nay những cuộc đấu tranh của các thành viên xã hội nhằm đòi hỏi việc phân phối công bằng vẫn thường xuyên xảy ra ở hầu hết các quốc gia và chắc còn tiếp diễn.
Về lý luận, công bằng xã hội là khái niệm mang tính triết lý và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như chính trị, đạo đức, tâm lý. Đối với người Việt Nam từ xưa đến nay vẫn xem công bằng là đạo lý cuộc sống “công bằng là đạo người ta ở đời”. Theo nghĩa thông thường công bằng là theo đúng lẽ phải, không thiên vị”. Phạm trù công bằng được sử dụng rất rộng. Trong lĩnh vực kinh tế, công bằng thường gắn với hình thức phân phối. Công bằng trong phân phối thu nhập là sự phân phối một cách hợp lý, phản ánh đúng tương quan giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa trách nhiệm và lợi ích, giữa vị thế cá nhân trong cộng đồng. Tuy nhiên, đi vào cụ thể, quan niệm trên đây không dễ thống nhất. Nó phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, vào truyền thống văn hoá cũng như quan niệm đạo đức ở mỗi nước. Ph.Ăngghen đã viết: “công lý của người Hy Lạp và La Mã cho rằng, chế độ nô lệ là công bằng; Công lý của những nhà tư sản năm 1789 đòi hỏi thủ tiêu chế độ phong kiến vì chế độ ấy không công bằng. Như vậy có thể hiểu, mỗi xã hội đều có chuẩn mực riêng của mình về công bằng xã hội do hoàn cảnh lịch sử cụ thể của xã hội đó quy định. Cũng cần nói thêm, phân phối công bằng không có nghĩa là “bình đẳng”. Vì bình đẳng là chỉ sự bằng nhau, ngang nhau. Một sự phân phối mang tính bình đẳng thì ngay đến chủ nghĩa xã hội cũng chưa có điều kiện để thực hiện. Như chúng ta đã biết dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc phân phối đảm bảo công bằng là phân phối theo lao động. Tuy nhiên như C.Mác đã chỉ ra sự phân phối công bằng đó vẫn còn hàm chứa trong nó sự chấp nhận một tình trạng bất bình đẳng nhất định giữa các thành viên trong xã hội, vì với một công việc ngang nhau và do đó với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế người này vẫn lĩnh nhiều hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người kia.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN còn tồn tại chế độ đa sở hữu, tồn tại thị trường như vậy để đảm bảo phân phối công bằng cần phải tuân thủ nguyên tắc phân phối theo yêu tố lao động và các yếu tố sản xuất dựa trên cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước. Với nguyên tắc phân phối như vậy sẽ đảm bảo công bằng kinh tế trong phân phối “làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít” “đóng góp như nhau, hưởng thụ như nhau”.
Trong một nền kinh tế thống nhất, tăng trưởng kinh tế và phân phối công bằng là những khâu có vị trí độc lập tương đối với nhau. Tăng trưởng kinh tế 1iên quan tới việc tạo ra của cải vật chất cụ thể là GDP. Còn phân phối công bằng là việc phân chia các sản phẩm làm ra đó sao cho hợp lý. Điều đó cũng có nghĩa tăng trưởng kinh tê' tự nó không dẫn đến phân phối công bằng và phân phối công bằng tự nó không làm tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trong sự phát triển kinh tế xã hội giữa tăng trưởng kinh tế và phân phối công bằng có mối quan hệ tương tác với nhau. Tăng trưởng kinh tế tạo ra của cải cho xã hội chính là điều kiện thực hiện công bằng xã hội. Tăng trưởng càng cao, kinh tế càng phát triển, càng có điều kiện để thực thi các chính sách công bằng xã hội. Ngược lại, phân phối công bằng sẽ có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Nó kích thích tính tích cực sáng tạo của mọi người nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng. Nó còn tạo ra một xã hội hài hoà giữa lợi ích cá nhân và công cộng. Như vậy, phân phối công bằng vừa là tiền đề để tạo ra ổn định xã hội, vừa là động lực lớn cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Từ những điều nêu trên có thể thấy tăng trưởng và công bằng xã hội không loại trừ nhau. Do đó, không nhất thiết phải giàu có mới thực hiện công bằng xã hội. Ngay trong điều kiện kinh tế còn nghèo nàn, nếu có chính sách phân phối hợp lý vẫn có thể đảm bảo thực hiện tốt công bằng xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tăng trưởng kinh tế cần gắn với đảm bảo tiến độ và công bằng xã hội trong từng bước phát triển. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế thị trường sẽ hình thành khoảng cách về thu nhập trong các tầng lớp dân cư. Điều này càng cần chú ý, nhất là nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng như chuyển dịch lao động giữa các ngành kinh tế, giữa thành thị và nông thôn đang dẫn đến phân hoá giàu nghèo mạnh mẽ. Vấn đề là ở chỗ phải giữ cho khoảng cách thu nhập ở mức độ hợp lý để sao cho kinh tế vẫn tăng trưởng, xã hội vẫn ổn định phát triển. Điều này phụ thuộc rất lớn vào vai trò của nhà nước.
Để thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với đảm bảo công bằng xã hội, việc phân phối thu nhập cần có sự kết hợp giữa thị trường và nhà nước. Trong phân phối lần đầu cần phát huy tác dụng của cơ chế thị trường. Theo cơ chế này, việc phân phối thu nhập cụ thể phân phối tiền lương, tiền công, lợi tức, lợi nhuận và tiền thuê các tài sản khác đều được thực hiện bằng hệ thống giá cả thông qua quan hệ cung cầu trên thị trường. Điều đó đảm bảo được công bằng trong phân phối, khuyến khích chủ sở hữu các nguồn lực bỏ vốn và tài sản vào sản xuất kinh doanh.
Trong tái phân phối, cần coi trọng vai trò điều tiết của nhà nước nhằm giảm bớt sự phân hoá giàu nghèo, duy trì khoảng cách thu nhập trong giới hạn hợp lý, đảm bảo hài hoà mối quan hệ phát triển kinh tế và công bằng xã hội. Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ để thực hiện vai trò điều tiết của mình. Trong đó, các công cụ quan trọng là thuế, ngân sách nhà nước, tín dụng nhà nước và hệ thống an sinh xã hội. Trong hoàn cảnh cụ thể nước ta hiện nay các đối tượng của chính sách xã hội rất đa dạng. Vì vậy, hệ thống an sinh xã hội phải được phát triển mạnh. Trong đó, cần coi trọng chính sách tương trợ xã hội nhằm phát huy truyền thống tương thân, tương ái, lá lành đùm lá rách trong cộng đồng để giúp nhau vượt khó.
Như đã biết, phân phối không chỉ là một khâu của quá trình tái sản xuất mà còn là một mặt quan trọng của quan hệ sản xuất trong một chế độ nhất định. Nó thể hiện ở mối quan hệ lợi ích giữa các chủ thể phân phối. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta, việc xây dựng một chế độ phân phối mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa hàng đầu. Điều đó phụ thuộc vào một chính sách xử lý hài hoà lợi ích giữa ba chủ thể: người lao động - doanh nghiệp - nhà nước.
Người lao động vừa là chủ thể trực tiếp tạo ra giá trị vừa mang yếu tố của sản xuất. Trong phân phối lần đầu chủ thể này nhận được phần thu nhập dưới hình thức tiền công, tiền lương và các khoản phụ cấp lương. Hiện nay, trong xã hội vẫn tồn tại lao động chân tay và lao động trí óc, vì vậy một chính sách tiền lương hợp lý là phải gắn với trình độ lao động và hiệu quả sản xuất. Cần có quan điểm mới xem lao động quản lý của những nhà kinh doanh là lao động sản xuất phức tạp tạo ra giá trị và phải có chế độ thù lao thoả đáng đối với công sức họ bỏ ra (cha ông ta thường có câu: “Một người lo bằng kho người làm”). Cùng với chính sách tiền lương, cần nghiên cứu chế độ phân chia lợi nhuận ở doanh nghiệp, thực hiện phân chia một phần lợi nhuận cho người lao động trong doanh nghiệp dưới các hình thức khác nhau.
Doanh nghiệp, là người trực tiếp tổ chức toàn bộ chu trình sản xuất, trực tiếp tạo việc làm, tạo của cải xã hội và gánh chịu toàn bộ rủi ro. Trong phân phối lần đầu, chủ thể này nhận được phần thu nhập dưới dạng lợi nhuận và khấu hao tài sản cố định. Tuy nhiên, kết quả phân phối cụ thể phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó hiệu quả sản xuất kinh doanh và chính sách của nhà nước, nhất là chính sách thuế có tính chất quyết định. Vì vậy, việc thực thi một chính sách phân phối lợi nhuận nhằm đảm bảo kết hợp lợi ích hài hoà của người lao động và doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh có ý nghĩa quan trọng.
Nhà nước: nhà nước góp phần tạo ra GDP bằng chính sách thuế gián thu và thuế nhập khẩu. Đây chính là đặc điểm của nhà nước trong quá trình phân phối lần đầu. Đồng thời, bằng công cụ luật pháp và các chính sách kinh tế - xã hội, nhà nước thực hiện điều chỉnh cả hai quá trình phân phối lần đầu và phân phối lại trong phân phối GDP. Nhà nước sử dụng phần thu nhập của mình để cung cấp các dịch vụ công cộng, đảm bảo an ninh quốc phòng và trực tiếp phân bổ nguồn lực phát triển, thực hiện điều hoà lợi ích kinh tế giữa doanh nghiệp và người lao động, giữa hai khu vực sản xuất và phi sản xuất, giữa tăng trưởng và công bằng xã hội.
Ở nước ta, phân phối thu nhập những năm gần đây theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước đã hình thành ba lợi ích chủ yếu trong nền kinh tế. Theo tính toán, từ kết quả điều tra toàn bộ doanh nghiệp vào ngày 1/4/2001 cho thấy thu nhập lần đầu của người lao động chiếm trong giá trị gia tăng 29,l%; của doanh nghiệp là 15,9% và của nhà nước là 55%. Nhìn chung, có thể thấy phần thu nhập của người lao động chiếm trong giá trị gia tăng còn quá thấp. Tuy nhiên, nước ta mới chuyển sang kinh tế thị trường nên điều đó có thể chấp nhận.
Trong giai đoạn tới, trên đà tăng trưởng và phát triển kinh tế, quy mô thu nhập quốc dân cũng tăng lên. Trên cơ sở đó, cần có chính sách nâng cao hơn nữa tỷ lệ thu nhập của những người lao động trong tổng số thu nhập quốc dân.
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong lĩnh vực phân phối thu nhập quốc dân đã có những chuyển biến về nhận thức cũng như thực thi các chính sách phân phối nhằm phù hợp với tính chất của nền kinh tế mới.
* Nhà nước đã chủ trương cải cách hệ thống thuế như là công cụ chủ yếu để phân phối thu nhập quốc dân, điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và đảm bảo công bằng xã hội. Việc cải cách hệ thống thuế trong thời gian vừa qua đã từng bước làm cho hệ thống thuế phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trở thành công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước, góp phần quan trọng tạo ra sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư từ đó thúc đẩy đầu tư sản xuất tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước.
* Năm 1996 lần đầu tiên Luật Ngân sách nhà nước đã được quốc hội thông qua. Chính sách phân phối qua ngân sách đã được đổi mới theo hướng vừa tập trung cho đầu tư phát triển, vừa hướng mạnh vào mục tiêu thực hiện công bằng xã hội. Việc công nhận tồn tại thị trường lao động và tiền lương như phản ánh giá cả sức lao động là sự thay đổi lớn về nhận thức của Đảng và Nhà nước ta.
* Cuộc cải cách tiền lương năm 1993 cũng đặt nền móng cho tư duy mới về chính sách tiền lương trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cơ cấu tiền lương tối thiểu đã bao gồm cả phần tiền tệ hoá các phần phân phối gián tiếp trước đây ngoài tiền lương từ ngân sách cho người lao động như nhà ở, tem phiếu, lương thực, thực phẩm, chất đốt, thuốc chữa bệnh, tiền học, chi phí đi lại, cấp phát một số đồ dùng sinh hoạt cho một số đối tượng. Đó là sự đổi mới cơ bản trong chính sách và chế độ tiền lương.
* Các chính sách an sinh xã hội cũng đã được hoàn thiện dần theo hướng huy động mọi lực lượng trong xã hội bao gồm nhà nước, cộng đồng người dân cũng thực hiện nhằm xoá bỏ tình trạng bao cấp và làm giảm gánh nặng cho ngân sách.
* Những chính sách, biện pháp xoá đói giảm nghèo thời gian qua đã góp phần làm cho mức sống người nghèo được cải thiện và giảm tỷ lệ đói nghèo.
Tóm lại, công cuộc cải cách 20 năm qua đã dẫn đến những thay đổi cơ bản trong cơ chế phân phối. Việc đó đã góp phần giải phóng các nguồn lực, tạo tiền đề cho sản xuất phát triển và tạo cơ sở thực hiện các chính sách về công bằng xã hội.
Tuy nhiên, việc thực hiện phân phối theo nguyên tắc thị trường ở nước ta cho đến nay còn nhiều hạn chế và chưa triệt để. Những cuộc cải cách, đặc biệt cải cách tiền lương còn mang tính nửa vời. Điều đó làm rối loạn khâu phân phối, thu nhập bằng lương còn mang nặng dấu ấn bình quân, chênh lệch giữa các mức lương rất nhỏ, xét về mặt giá trị không đáng kể. Mức lương còn quá thấp khiến không một ai trong xã hội có thể sống chỉ bằng lương. Theo kết quả tính toán tiền lương mới chỉ tương đương 30% giá trị lao động bỏ ra. Vì vậy, buộc mọi người phải tìm cách làm thêm dù rằng công việc đó trái với đạo đức và lương tâm nghề nghiệp.
* Hệ thống thuế đã qua hai lần cải cách và nhiều lần sửa đổi nhưng đến nay vẫn còn nhiều bất cập. Hiện nay thuế chưa bao quát được hết các nguồn thu và tính công bằng chưa cao. Thuế thu nhập còn đóng góp phần quá nhỏ trong thu ngân sách. Trong khi đó, tỷ lệ đóng góp từ các loại thuế, phí và các loại đóng góp khác nhau ở khu vực nông thôn đang tạo ra gánh nặng cho nhiều hộ gia đình có thu nhập thấp.
* Hệ thống an sinh xã hội đang phát triển, nhưng mạng lưới này mới chỉ bao phủ một tỷ lệ nhỏ dân số ở Việt Nam. Tỷ lệ doanh nghiệp đóng bảo hiểm xã hội trong tổng số doanh nghiệp mới đạt gần 30% (năm 2002 là 20,8%, năm 2003: 29,7%). Các hộ gia đình hưởng lợi từ sự trợ giúp còn rất hạn hẹp. Trung bình người dân hưởng lợi mới chỉ nhận được từ mạng lưới an sinh tương đương 5% thu nhập của hộ gia đình. Những dữ liệu nghiên cứu, khảo sát mức sống ở Việt Nam cho thấy phúc lợi xã hội đã đem lại lợi ích cho những hộ khá giả nhiều hơn các hộ nghèo.
* Sự tiếp cận bình đẳng những cơ hội mà với những cố gắng của con người có thể có thu nhập cao hơn đối với người nghèo hiện nay còn nhiều hạn chế. Số liệu điều tra mức sống ở Việt Nam chỉ ra rằng, mới khoảng 5% hộ gia đình nghèo được vay vốn tín dụng ưu đãi trong khi 2,75 triệu hộ gia đình trên toàn đất nước được vay vốn của ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam. Người nghèo cũng rất ít có cơ hội hưởng giáo dục bậc cao, vì chi phí quá lớn trong khi đó chính sách học bổng còn rất hạn hẹp.
* Trong điều kiện bộ máy quản lý nhà nước còn yếu kém cộng với cơ chế xin - cho chưa xoá bỏ được đã làm nảy sinh phân phối theo quyền lực đối với những người có chức có quyền, tạo ra mảnh đất màu mỡ cho tệ nạn hối lộ và tham nhũng phát triển. Đó cũng là hành vi bóc lột, thậm chí là bóc lột siêu kinh tế tệ hại nhất. Trong thực tế, tham nhũng đã xuất hiện ở tất cả các khâu của quá trình phân phối và bóp méo kết quả phân phối ở nước ta. Còn tham nhũng thì chưa thể nói đến công bằng xã hội. Nó đang tạo ra sự bất bình đẳng lớn trong thu nhập hiện nay ở nước ta.
Điều lo ngại nhất về bất bình đẳng ở nước ta hiện nay không phải ở chỗ khoảng cách giàu nghèo đang có xu hướng doãng ra và tìm giải pháp nhằm hạn chế nó trong phạm vi cho phép, mà là nội dung và tính chất của nó đang có tác động đến vấn đề tâm lý xã hội của người dân. Người dân không phẫn nộ với bản thân sự giàu có, mà phẫn nộ với sự giàu có bất công. Họ không bất bình với các quan chức nói chung, mà là đối với những quan chức lợi dụng vị trí để làm giàu bất chính. Vì vậy, chỉ thực hiện một nhà nước thực sự pháp quyền minh bạch mới có thể giải quyết vấn đề này./.
GS. Vũ Đình Bách