Thứ Ba, 26/11/2024
Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống
Thứ Sáu, 6/5/2011 9:44'(GMT+7)

Tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới!

 
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đảng là gồm các đảng viên mà tổ chức nên. Mọi công việc của Đảng đều do đảng viên làm. Mọi nghị quyết của Đảng đều do đảng viên chấp hành. Mọi chính sách của Đảng đều do đảng viên mà thấu đến quần chúng. Mọi khẩu hiệu, mọi kế hoạch của Đảng đều do đảng viên cố gắng thực hiện”1. Người cũng thường xuyên căn dặn: chi bộ tốt là do có nhiều đảng viên tốt; đảng viên tốt thì Đảng mới mạnh; Đảng có mạnh thì Đảng mới làm trọn nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang. Quán triệt và vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, Đảng ta luôn chú trọng xây dựng đội ngũ đảng viên; gắn xây dựng, củng cố tổ chức đảng với xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.

Trong những năm thực hiện đường lối đổi mới, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã có nhiều chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định về xây dựng, phát triển đội ngũ đảng viên. Trên cơ sở đó, cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng những kế hoạch, giải pháp cụ thể, phù hợp với đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ cách mạng để thực hiện, nhằm tăng cường xây dựng, củng cố, phát triển tổ chức cơ sở đảng, xây dựng hệ thống chính trị và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Do đó, đội ngũ đảng viên đã   không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng2; cơ cấu đội ngũ đảng viên từng bước được chuyển biến

theo hướng tích cực, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng; tỷ lệ đảng viên ở lứa tuổi thanh niên, đảng viên nữ, đảng viên là người dân tộc thiểu số, đảng viên trong các tôn giáo đều tăng lên qua các năm; tuổi đời bình quân của đội ngũ đảng viên trong toàn Đảng có xu hướng giảm. Thực tiễn phong phú và những thành tựu đạt được qua 25 năm đổi mới đã chứng minh rằng: sự phát triển lớn mạnh của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng đã góp phần quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong thời gian qua, công tác xây dựng đội ngũ đảng viên còn những hạn chế, yếu kém. Do đó, chất lượng đội ngũ đảng viên chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Đó là tình trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ chủ chốt ở các cấp, yếu kém cả về phẩm chất và năng lực; tính chiến đấu, tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình yếu; một bộ phận chưa thể hiện vai trò tiền phong gương mẫu, còn nói nhiều làm ít, hoặc nói nhưng không làm, trung bình chủ nghĩa, thờ ơ, vô cảm và thiếu trách nhiệm trước những vụ việc tiêu cực, muốn làm theo cách cũ, không chịu đổi mới; bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân có chiều hướng gia tăng, tình thương yêu đồng chí trong Đảng giảm sút; tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy vị trí công tác, chạy tội, chạy bằng cấp... còn xảy ra ở nhiều nơi; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng…

Trong lúc đó, công tác kiểm tra, giám sát đảng viên thiếu chặt chẽ; cấp uỷ, chi bộ chưa nắm chắc tình hình tư tưởng và phẩm chất đạo đức của đảng viên, nhất là những đảng viên hoạt động phân tán, công tác ở nơi xa... Nhiều đảng viên có khuyết điểm, vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước nhưng tổ chức đảng không biết, hoặc phát hiện chậm; việc giáo dục, xử lý đối với đảng viên vi phạm ở nhiều nơi thiếu kịp thời và chưa nghiêm túc. Trong từng lĩnh vực hoạt động, đội ngũ đảng viên cũng có những hạn chế, khuyết điểm như: ở xã, phường, thị trấn, trình độ năng lực của một bộ phận không nhỏ đảng viên, nhất là đảng viên giữ chức vụ trong Đảng, chính quyền, đoàn thể còn thấp; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên gặp nhiều khó khăn, chất lượng hạn chế; tư tưởng cục bộ địa phương, dòng họ còn nặng. Trong các đơn vị sự nghiệp, nhiều đảng viên còn thờ ơ, chưa coi trọng việc học tập lý luận chính trị. Nhiều đảng viên trong các doanh nghiệp, nhất là ở các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước chỉ quan tâm, chú ý đến sản xuất kinh doanh, lợi ích kinh tế, chưa quan tâm đúng mức đến công tác xây dựng Đảng, phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của đảng viên…

Thực tiễn công tác xây dựng đội ngũ đảng viên trong thời gian qua, nhất là trong 25 năm thực hiện đổi mới đã để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu. Để xây dựng được đội ngũ đảng viên vững mạnh, đáp ứng yêu cầu tình hình mới, cần tăng cường hơn nữa sự quan tâm chỉ đạo của Trung ương đối với cấp uỷ các cấp, nhất là ở cơ sở trong xây dựng tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên. Các ban Đảng ở Trung ương và các ban tham mưu của cấp uỷ cần phối hợp chặt chẽ trong việc giúp cấp uỷ tổ chức thực hiện các quy định, hướng dẫn của Trung ương về công tác đảng viên và xây dựng đội ngũ đảng viên. Đồng thời, các cấp phải thường xuyên coi trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, không ngừng nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng viên; kết hợp chặt chẽ giữa công tác xây dựng Đảng với thực hiện nhiệm vụ chính trị và xây dựng, củng cố các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh. Cấp uỷ các cấp cần phải bám sát chức năng, nhiệm vụ và xây dựng được quy chế hoạt động của tổ chức đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị; tổ chức tốt việc nghiên cứu, quán triệt các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp uỷ cấp trên, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Ban Tổ chức các cấp cần thực hiện tốt công tác tham mưu, đề xuất với cấp uỷ chỉ đạo và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, hướng dẫn, chỉ đạo của cấp uỷ cấp trên; thường xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ công tác đảng cho bí thư chi bộ và đội ngũ cấp uỷ viên cơ sở; phối hợp với các cơ quan tuyên giáo, kiểm tra để thực hiện tốt các mặt công tác đảng viên. Cấp uỷ các cấp cần coi trọng việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội; phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng đối với cán bộ, đảng viên; huy động trí tuệ tập thể, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong việc xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ đảng viên. Cùng với đó, các cấp cần chú trọng phát huy dân chủ, dựa vào nhân dân để nắm bắt thông tin, quản lý, giám sát đảng viên; lấy ý kiến nhân dân đóng góp đối với tổ chức đảng và đảng viên; qua đó, tạo mọi điều kiện thuận lợi để quần chúng nhân dân tham gia xây dựng Đảng.

Hiện nay, đất nước ta đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, việc xây dựng đội ngũ đảng viên thực sự trong sạch vững mạnh vừa là đòi hỏi tất yếu, vừa là yêu cầu cấp bách của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khoá X trình Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: “Đổi mới, tăng cường công tác quản lý, phát triển đảng viên, bảo đảm chất lượng đảng viên theo yêu cầu của Điều lệ Đảng. Xây dựng các tiêu chí, yêu cầu cụ thể về tư tưởng chính trị, trình độ năng lực, phẩm chất đạo đức, lối sống của đảng viên đáp ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng mới; phát huy tính tiền phong gương mẫu, chủ động, sáng tạo của đội ngũ đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách đảng viên”3.

Để thực hiện có hiệu quả những nội dung, yêu cầu trên, cấp uỷ và tổ chức đảng các cấp cần chú trọng quán triệt và thực hiện tốt những vấn đề chủ yếu sau:

Một là, tiếp tục đổi mới tư duy và nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, ý nghĩa của đảng viên và xây dựng đội ngũ đảng viên trong công tác xây dựng Đảng. Tập trung sức để xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự trong sạch vững mạnh; nêu cao vai trò tiền phong, gương mẫu, có phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành các nhiệm vụ được giao; kiên định lập trường giai cấp công nhân, phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của Đảng; phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và tính tự nguyện, tự giác của người đảng viên, để mọi đảng viên vững vàng trước những khó khăn, thử thách của cách mạng.

Hai là, không ngừng nâng cao chất lượng đảng viên, làm cơ sở để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên phải gắn liền với nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức cơ sở đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Thực tế cho thấy, trình độ trí tuệ và năng lực tổ chức thực hiện của đội ngũ đảng viên là yếu tố có ý nghĩa quyết định trực tiếp để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Để xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh, xứng đáng là đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới, phải thật sự mở rộng và phát huy dân chủ trong Đảng, làm cơ sở để mở rộng và phát huy dân chủ trong xã hội; phải dựa vào dân và phát huy sức mạnh của nhân dân để xây dựng Đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Chất lượng đội ngũ đảng viên càng cao sẽ làm cho quần chúng nhân dân gắn bó với Đảng và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Chất lượng đội ngũ đảng viên được nâng cao chính là nguồn cung cấp những cán bộ tốt cho Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội ở các cấp.

Ba là, trong xây dựng, phát triển đội ngũ đảng viên, phải chú ý kết hợp chặt chẽ giữa hai mặt của công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Một mặt, vừa đẩy mạnh kết nạp vào Đảng những quần chúng thật sự ưu tú, tiêu biểu và có đủ tiêu chuẩn, với kịp thời đưa ra khỏi Đảng những người không còn đủ tư cách đảng viên. Đây là hai mặt có quan hệ biện chứng của công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Trong công tác phát triển đảng viên, cần bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách đối với quần chúng ưu tú để thấy rõ động cơ, mục đích vào Đảng trước khi xem xét kết nạp vào Đảng; chú trọng trẻ hoá và nâng cao trình độ, kiến thức các mặt của đội ngũ đảng viên; khắc phục tình trạng chạy theo số lượng và không giao chỉ tiêu kết nạp đảng viên, không đặt số lượng đảng viên được kết nạp trong năm làm tiêu chí đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng. Cùng với đó, phải làm tốt việc sàng lọc đội ngũ đảng viên, kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh những đảng viên thoái hoá về chính trị, tư tưởng, vi phạm đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, cố tình vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Bốn là, thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các nội dung nhằm nâng cao chất lượng đảng viên; trong đó, chú ý các vấn đề, như: đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cho đảng viên về tư tưởng chính trị; về trình độ kiến thức và năng lực công tác thực tiễn; về phẩm chất, đạo đức cách mạng và lối sống trong sạch, lành mạnh. Việc phân công công tác cho đảng viên cần phù hợp, gắn với việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ và đánh giá chất lượng đảng viên hằng năm. Cùng với đó, làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, khen thưởng và kỷ luật đảng viên theo đúng quy định của Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Năm là, nâng cao chất lượng quản lý đảng viên, đưa công tác quản lý đảng viên vào nền nếp. Cấp uỷ các cấp cần thực hiện đúng các quy định, nguyên tắc, thủ tục, quy trình về công tác quản lý hồ sơ đảng viên; giới thiệu sinh hoạt đảng, giới thiệu đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với đảng uỷ, chi uỷ cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú; thực hiện nghiêm túc việc chuyển sinh hoạt đảng đối với những đảng viên nghỉ hưu về sinh hoạt với tổ chức đảng nơi cư trú; nghiên cứu hướng dẫn việc sinh hoạt đảng đối với những đảng viên chưa có chỗ làm việc ổn định, đảng viên đi làm việc lưu động ở xa nơi cư trú; đồng thời, tích cực sử dụng công nghệ thông tin trong việc quản lý cơ sở dữ liệu về đảng viên và các nội dung khác của công tác quản lý đảng viên.

Sáu là, tăng cường sự chỉ đạo, kiểm tra của cấp uỷ cấp trên đối với cơ sở. Cấp uỷ cấp trên, nhất là cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng phải hướng về cơ sở và đi sâu, đi sát cơ sở; thường xuyên chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện công tác đảng viên ở cơ sở; phân công uỷ viên thường vụ, cấp uỷ viên trực tiếp phụ trách cơ sở; có kế hoạch, quy định thời gian làm việc với cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể chính trị ở cơ sở để nắm chắc tình hình, cùng cơ sở tháo gỡ khó khăn; tăng cường đầu tư kinh phí để xây dựng cơ sở vật chất, bảo đảm điều kiện làm việc và trang thiết bị cần thiết phục vụ công tác ở cơ sở. Cùng với đó, cần định kỳ sơ kết, tổng kết công tác đảng viên, qua đó chấn chỉnh và đưa công tác đảng viên vào nền nếp; thực hiện việc giao cấp uỷ cơ sở tự kiểm tra, rà soát các mặt công tác đảng viên và báo cáo kết quả với cấp uỷ cấp trên.

Thực hiện tốt những vấn đề cơ bản trên là chúng ta đã thiết thực quán triệt và thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XI của Đảng ngay từ những tháng đầu, năm đầu của nhiệm kỳ Đại hội.

Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự trong sạch, vững mạnh, làm cơ sở, nền tảng xây dựng Đảng ta xứng đáng với trọng trách là đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo toàn dân tộc thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong thời kỳ mới, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, trước hết là của cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp.

TRẦN LƯU HẢI, Uỷ viên BCHTƯ Đảng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương/QPTD

----------------------

1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 235-236.

2 - Năm 1986 toàn Đảng chỉ có: 1,9 triệu đảng viên; năm 1996 có 2,2 triệu đảng viên; năm 2006 có: 3,1 triệu đảng viên; đến nay có hơn 3,7 triệu đảng viên. Năm 2000, tỷ lệ đảng viên có trình độ trung học phổ thông: 50,4%; cao đẳng, đại học: 19,3%, trình độ lý luận chính trị cao cấp, cử nhân chính trị: 3,09%; thì đến năm 2008 các tỷ lệ này (tương ứng) là: 70%, 29,83% và 4,47%.

3 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 260.
 

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất