Chủ Nhật, 22/9/2024
Tuyên truyền
Thứ Tư, 21/1/2009 11:1'(GMT+7)

Thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương bảy khóa X trên lĩnh vực lao động, thương binh và xã hội

Những thành tựu quan trọng

Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn được Đảng ta đặc biệt quan tâm, đặt ở vị trí chiến lược quan trọng, coi đó là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái.

Trong hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chính sách lao động, thương binh và xã hội liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã từng bước được đổi mới, hoàn thiện theo hướng phát triển mạnh nguồn nhân lực, giải phóng triệt để sức lao động nông thôn, tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội và phòng chống tệ nạn xã hội và đã đạt được những thành tựu quan trọng.

Đến năm 2007, dân số cả nước có khoảng 85,1 triệu người, trong đó gần 73% (61,86 triệu người) đang sinh sống ở nông thôn; lực lượng lao động nông thôn có khoảng 34,76 triệu người, chiếm 74,6% lực lượng lao động cả nước. Trong quá trình đổi mới và phát triển, trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nông thôn được cải thiện, trong 10 năm gần đây, tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật tăng từ 7,4% lên 16,9%, trong đó đào tạo nghề có bằng trở lên tăng từ 4,7% lên 8,2%. Giai đoạn 2001 - 2007, lao động có việc làm trong khu vực nông thôn có xu hướng tăng từ 29,2 triệu người lên 34,3 triệu người, bình quân mỗi năm khu vực nông thôn tạo thêm được 0,85 triệu chỗ làm việc mới, chiếm 57% tổng số chỗ làm việc mới được tạo ra, tăng trưởng việc làm bình quân trên 2,92%/năm. Chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra theo hướng tích cực; tỷ trọng lao động nông, lâm, ngư nghiệp liên tục giảm từ 62,8% (năm 2001) xuống còn 52,81% (năm 2007), bình quân mỗi năm giảm gần 1,08%. Trong khu vực nông thôn, cơ cấu hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản đã giảm từ 80,9% (năm 2001) xuống còn 71% (năm 2006). Năm 2007, số hộ công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông thôn có 3,46 triệu hộ, tăng 62% so với năm 2000.

Do sản xuất phát triển, thu nhập tăng, đời sống nông dân được cải thiện rõ rệt. Từ năm 1996 đến nay, thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn tăng hơn 2,7 lần (năm 2006, bình quân đạt 6,1 triệu đồng/người, theo giá hiện hành; thu nhập bình quân một hộ nông dân đạt 26,1 triệu đồng, vốn tích lũy bình quân mỗi hộ nông dân là 6,7 triệu đồng; 68% thu nhập là từ sản xuất nông, lâm, thủy sản). Tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực nông thôn giảm nhanh, từ 66,4% (năm 1993), xuống còn 45,5% (năm 1998), 35,6% (năm 2002), 27,5% (năm 2004) và 18% (năm 2007).

Công tác đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công và các đối tượng chính sách xã hội được các cấp, các ngành quan tâm, có kết quả thiết thực. Hiện nay, 100% bà mẹ Việt Nam anh hùng còn sống đều được chăm sóc, phụng dưỡng đến cuối đời. Mười năm qua, cả nước đã xây dựng và sửa chữa hàng trăm ngàn ngôi nhà tình nghĩa, tặng hơn 600.000 sổ tiết kiệm tình nghĩa với giá trị hàng trăm tỉ đồng; khoảng gần 90% người có công với cách mạng đã có mức sống bằng hoặc cao hơn so với mặt bằng mức sống người dân nơi cư trú. Hằng năm cứu trợ đột xuất cho khoảng 1-1,5 triệu người ở các vùng thiên tai, bão lụt. Riêng năm 2007, Chính phủ đã xuất gần 80 ngàn tấn gạo dự trữ quốc gia để cứu trợ các hộ thiếu đói do thiên tai. Từ năm 2000 đến 2007, tỷ lệ đối tượng hưởng trợ cấp xã hội đã tăng lên nhanh chóng, từ 36,35% trong tổng số đối tượng thuộc diện được hưởng tăng lên 52%, mức trợ cấp xã hội tăng bình quân 1,8 lần, nhờ đó đời sống đối tượng hưởng trợ cấp xã hội được ổn định và có phần cải thiện, hòa nhập tốt hơn vào cộng đồng.

Thành tựu trên đây góp phần to lớn ổn định chính trị, xã hội ở nông thôn, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Yếu kém, bất cập và những vấn đề đặt ra

Chất lượng lao động nông thôn và nông dân quá thấp, hơn 90% lao động nông thôn và nông dân chưa qua đào tạo nghề; chất lượng việc làm và năng suất lao động nông nghiệp, nông thôn cũng rất thấp, tình trạng thiếu việc làm rất nghiêm trọng; vấn đề việc làm và đời sống của nông dân vùng bị thu hồi đất cho phát triển công nghiệp, khu đô thị rất bức xúc, dòng di chuyển lao động nông thôn, thành thị có xu hướng ngày càng tăng; cơ cấu lao động chuyển dịch chậm và không theo kịp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Kết quả giảm nghèo chưa vững chắc, tỷ lệ hộ nghèo đã thoát nghèo nhưng nằm sát chuẩn nghèo rất lớn (70% - 80%), gặp rủi ro là lại rơi vào đói nghèo, tỷ lệ tái nghèo cao (7% - 10%); 90% số hộ nghèo tập trung ở nông thôn và tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn còn cao (18% so với 14,75% của cả nước), đặc biệt là ở vùng nông thôn miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có đông đồng bào dân tộc; cả nước còn 58 huyện miền núi có tỷ lệ hộ nghèo trên 50%; bất bình đẳng về thu nhập và mức sống giữa các tầng lớp dân cư còn lớn và có xu hướng gia tăng, năm 2006 chênh lệch thu nhập giữa nông thôn và thành thị là 2,04 lần.

Khu vực nông nghiệp, nông thôn có nhiều rủi ro, nhưng nông dân chưa được tiếp cận và hưởng lợi nhiều từ chính sách an sinh xã hội. Cho đến nay, nông dân không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, từ 1-1-2008 mới bắt đầu tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện theo luật định; tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện còn thấp; khoảng 48% đối tượng trong diện cần trợ giúp xã hội nhưng chưa được hưởng trợ cấp xã hội; thiệt hại về người và của do thiên tai rất lớn, nhưng việc hỗ trợ phòng tránh và khắc phục hậu quả mới chỉ đáp ứng được một phần nhỏ (khoảng 10% - 20%); nông dân, nhất là nông dân nghèo, ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số khó tiếp cận các dịch vụ xã hội, nhất là dịch vụ xã hội chất lượng cao (y tế, giáo dục, nhà ở...); tệ nạn xã hội trong nông thôn có xu hướng gia tăng...

Chính sách lao động, thương binh và xã hội đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được đổi mới phù hợp với quan điểm, chủ trương của Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong điều kiện mới; cụ thể hóa quan điểm xuyên suốt gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển, nhất là chính sách phát triển nguồn nhân lực, đào tạo, dạy nghề, giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo và an sinh xã hội, hòa nhập xã hội nhóm yếu thế... Cụ thể là:

Thứ nhất, trọng tâm của chính sách lao động, thương binh và xã hội phải hướng vào khu vực nông thôn và cho nông dân, chính sách đó phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và đúng với vị trí quan trọng của nó trong chiến lược lâu dài.

Thứ hai, giải quyết các vấn đề lao động, thương binh và xã hội liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; phải đặt trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, trong mối quan hệ này nông dân là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản, phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt.

Thứ ba, xây dựng và thực hiện chính sách lao động, thương binh và xã hội hướng vào nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải dựa trên cơ sở phát huy cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng vùng và cả nước để giải phóng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, trước hết là lao động, đất đai, rừng và biển, phát huy lợi thế hội nhập quốc tế và nội lực trong nông thôn, đồng thời tăng mạnh sự hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước; ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học - công nghệ; phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí.

Thứ tư, tập trung nguồn lực và sự chỉ đạo giải quyết các vấn đề lao động, thương binh và xã hội cho các vùng nông thôn khó khăn, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, khu căn cứ cách mạng trước đây và vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số.

Thứ năm, giải quyết vấn đề lao động, thương binh và xã hội đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Trong đó, sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước có vai trò quyết định; phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng, nhất là Hội Nông dân; thực hiện rộng rãi dân chủ ở cơ sở; khơi dậy tinh thần yêu nước, tự chủ, tự lực tự cường, vươn lên của nông dân.

Đến năm 2020, khi nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, mục tiêu cơ bản liên quan đến lĩnh vực lao động, thương binh và xã hội là góp phần nâng cao nhanh chóng đời sống vật chất và tinh thần của dân cư nông thôn. Mục tiêu cụ thể là phải tập trung phát triển nguồn nhân lực, giải quyết cơ bản việc làm, nâng cao thu nhập của cư dân nông thôn gấp 2,5 lần so với hiện nay; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động, giảm mạnh tỷ lệ lao động nông nghiệp xuống còn 30% trong tổng lực lượng lao động; tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%, trong đó qua đào tạo nghề khoảng 30% - 35%; căn bản giải quyết vấn đề đói nghèo và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân nông thôn; phát triển hệ thống an sinh xã hội đối với khu vực nông thôn và cho nông dân, nhất là bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm y tế toàn dân; 100% đối tượng cần trợ giúp xã hội được hưởng trợ cấp xã hội.

Mục tiêu trước mắt đến năm 2010 là tạo bước đột phá trong đào tạo nguồn nhân lực, dạy nghề cho thanh niên nông thôn và nông dân; tạo đủ việc làm, từng bước nâng cao chất lượng việc làm và năng suất lao động trong nông nghiệp, nông thôn, chuyển dịch mạnh cơ cấu lao động, giảm lao động nông nghiệp còn dưới 50%. Phấn đấu 100% gia đình người có công với cách mạng có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của xã hội. Tăng cường công tác xóa đói, giảm nghèo, giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới còn 10% - 11%. Tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc về an sinh xã hội đối với nông dân, nhất là mở rộng đối tượng nông dân tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm y tế và nâng tỷ lệ đối tượng hưởng trợ cấp xã hội lên 70%.

Các nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới

- Tập trung đào tạo nguồn nhân lực, dạy nghề cho lao động nông thôn, nhất là thanh niên. Thực hiện chương trình khuyến nông, lâm, ngư, đặc biệt là tập huấn, chuyển giao khoa học - kỹ thuật và công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học vào nông thôn và cho nông dân. Thực hiện chương trình phổ cập nghề cho lao động nông thôn theo yêu cầu của sản xuất nông nghiệp và của thị trường lao động, nhất là cho nông dân vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất; ưu tiên cho thanh niên nông thôn học nghề trình độ cao để cung cấp cho các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp và xuất khẩu lao động. Thực hiện tốt chính sách hỗ trợ thanh niên nông thôn học nghề, tạo việc làm và xuất khẩu lao động.

- Tạo đủ việc làm đi đôi với nâng cao chất lượng việc làm, tăng năng suất lao động, tăng thu nhập cho người nông dân. Tăng đầu tư xã hội cho phát triển nông nghiệp, nông thôn; có chính sách hỗ trợ và khuyến khích phát triển nông nghiệp hàng hóa sạch, nông nghiệp công nghệ cao; khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư trong và ngoài nước mở mang ngành nghề phi nông nghiệp, tạo nhiều việc làm cho nông dân, trước hết là phát triển các vùng kinh tế tiềm năng, ngành dịch vụ, công nghiệp chế biến nông sản, khôi phục và phát triển ngành nghề. Khuyến khích mọi người tự tạo việc làm và thu hút lao động xã hội, nhất là kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại. Hỗ trợ phát triển thị trường lao động, phát triển quan hệ thuê mướn lao động ở nông thôn, nâng cao năng lực thị trường cho nông dân, hỗ trợ thanh niên nông thôn di chuyển và tìm việc làm trên thị trường lao động.

- Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách ưu đãi người có công với cách mạng. Tiếp tục thực hiện cải cách chế độ trợ cấp đối với người có công trên cơ sở mức sống trung bình của xã hội đạt được trong từng thời kỳ; phát triển hệ thống các hoạt động sự nghiệp, các chương trình dự án chăm sóc người có công và mở rộng phong trào đền ơn đáp nghĩa, toàn dân tham gia chăm sóc người có công nhằm bảo đảm mức sống của gia đình người có công bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của xã hội; thực hiện quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng thế hệ con em người có công tiếp nối sự nghiệp và phát huy truyền thống cách mạng của thế hệ cha anh, đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ mới.

- Thực hiện chính sách tăng trưởng kinh tế gắn với giảm nghèo bền vững; khuyến khích làm giàu đi đôi với tích cực thực hiện giảm nghèo, vươn lên no ấm, trước nhất là ở nông thôn, vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách mạng trước đây; đưa công tác giảm nghèo vào nội dung chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước, của từng địa phương; giữ khoảng cách chênh lệch giàu - nghèo hợp lý để không trở thành vấn đề xã hội bức xúc. Nghiên cứu xây dựng chương trình phát triển cộng đồng và phát triển nông thôn gắn với giảm nghèo.

- Xây dựng và thực hiện một hệ thống chính sách an sinh xã hội hoàn chỉnh cho nông thôn, nông dân. Trước hết, thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm y tế; khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm tự nguyện khác cho nông dân. Đặc biệt, nghiên cứu chính sách hỗ trợ nông dân, nhất là nông dân nghèo tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, từng bước thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân. ổn định và từng bước cải thiện đời sống của nhóm đối tượng yếu thế ở nông thôn, tạo điều kiện cho họ hòa nhập tốt hơn vào cộng đồng trên cơ sở đa dạng hóa các loại hình trợ giúp xã hội và cứu trợ xã hội tự nguyện, nhân đạo, chuyển mạnh sang cung cấp dịch vụ bảo trợ xã hội hoạt động không vì mục đích lợi nhuận và chăm sóc đối tượng dựa vào cộng đồng; sửa đổi, bổ sung chế độ trợ cấp xã hội dựa trên cơ sở tăng mức sống tối thiểu của toàn xã hội; tạo cơ hội và ưu tiên cho các đối tượng bảo trợ xã hội tiếp cận nguồn lực kinh tế (trước hết là người còn khả năng lao động), dịch vụ công thiết yếu, bình đẳng về giáo dục đào tạo, dạy nghề, việc làm, chăm sóc sức khỏe, nhà ở, văn hóa, thông tin... thông qua thực hiện các chương trình mục tiêu.

- Tích cực và kiên quyết phòng, chống tệ nạn xã hội, trước hết là tệ nạn nghiện hút, mại dâm; kiểm soát chặt chẽ đối tượng phát sinh tại cơ sở; nhân rộng mô hình chữa trị, cai nghiện và tái hòa nhập cộng đồng đối tượng nghiện ma túy, mại dâm; áp dụng các giải pháp kinh tế - xã hội sau cai (quản lý đối tượng sau cai, dạy nghề, lao động trị liệu, tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo...); thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng xã, thôn, bản lành mạnh, không có tệ nạn xã hội.

Triển khai đồng bộ các giải pháp

Một là, tiếp tục thể chế hóa thành cơ chế, chính sách, luật pháp các chủ trương, quan điểm của Đảng liên quan đến lĩnh vực lao động, thương binh và xã hội. Trong đó, việc thể chế hóa phải hướng vào giải phóng triệt để sức sản xuất và sức lao động, tự do hóa mạnh hơn nữa đối với lao động nông thôn; sửa đổi chính sách về dạy nghề và việc làm phù hợp với khu vực nông thôn; thể chế hóa chính sách an sinh xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội đa tầng và linh hoạt, tạo cơ hội cho nông dân tiếp cận; sửa đổi chính sách hỗ trợ người nghèo về y tế, giáo dục, dạy nghề, nhà ở... phù hợp với tăng trưởng kinh tế.

Hai là, nghiên cứu đánh giá và cảnh báo tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến lao động, việc làm, thị trường lao động, an sinh xã hội để có chính sách phù hợp, giảm thiểu tác động tiêu cực. Trước mắt, để ổn định đời sống của người nghèo, đối tượng chính sách xã hội và người có thu nhập thấp trong tình hình lạm phát cao hiện nay, Chính phủ tập trung chỉ đạo tổ chức thực hiện đầy đủ, đúng, kịp thời, có hiệu quả các chính sách bảo hiểm xã hội, chính sách đối với hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số đã được ban hành; đồng thời các tỉnh, thành phố có điều kiện về ngân sách sớm xem xét, quyết định mức trợ cấp xã hội cao hơn mức quy định. Tăng nguồn lực cho chương trình giảm nghèo và phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn, miền núi, nhất là ưu tiên cho 58 huyện nghèo nhất. Nghiên cứu điều chỉnh chuẩn nghèo và trợ cấp xã hội phù hợp để áp dụng cho giai đoạn tiếp theo từ năm 2009.

Ba là, tăng đầu tư và ngân sách cho thực hiện hiệu quả chính sách và các chương trình mục tiêu về lao động, thương binh và xã hội như việc làm, phát triển nguồn nhân lực, dạy nghề, xuất khẩu lao động và chuyên gia; giảm nghèo; hỗ trợ các xã đặc biệt khó khăn; chương trình trợ giúp người cao tuổi, chương trình chăm sóc thay thế trẻ em đặc biệt khó khăn dựa vào cộng đồng; chương trình trợ giúp người tàn tật; chương trình phòng chống tệ nạn xã hội. Để bảo đảm việc thực hiện hiệu quả các chính sách và chương trình đã ban hành, Chính phủ ưu tiên bố trí đủ nguồn vốn và tăng dự trữ, dự phòng; đồng thời xây dựng cơ chế thực thi và chỉ đạo chặt chẽ việc thực hiện, bảo đảm nguồn hỗ trợ của Nhà nước kịp thời, đúng đối tượng và hiệu quả, không để thất thoát lãng phí.

Bốn là, hoàn thiện và đổi mới phương thức quản lý, hoạt động của hệ thống sự nghiệp cung cấp dịch vụ trong lĩnh vực lao động, thương binh và xã hội theo hướng đơn vị tự chủ và tự chịu trách nhiệm, chuyển mạnh sang cung cấp dịch vụ công và chăm sóc đối tượng dựa vào cộng đồng.

Năm là, tiếp tục đổi mới công tác chỉ đạo, điều hành, đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường phân cấp, nâng cao trách nhiệm chính quyền địa phương trong quản lý, điều hành và thực hiện các chính sách, chương trình thuộc lĩnh vực lao động, thương binh và xã hội đối với nông dân. Phát triển công tác xã hội thành một nghề chuyên nghiệp và nâng cao năng lực cán bộ theo hướng chuyên môn hóa để tư vấn, hỗ trợ và tham gia chăm sóc đối tượng cộng đồng. Đưa công nghệ thông tin vào hoạt động điều hành hệ thống chính sách lao động, thương binh và xã hội, trước hết là quản lý đối tượng và chi trả chế độ trợ cấp./.


Nguyễn Thị Kim Ngân
Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội

(Theo Tạp chí Cộng sản)

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất