Chủ Nhật, 22/9/2024
Tuyên truyền
Chủ Nhật, 9/11/2008 18:1'(GMT+7)

Tiếp tục một cách kiên định và sáng tạo con đường xã hội chủ nghĩa (Phần 2)

Ngày 7/11/2006, cờ Việt Nam đã tung bay chung cùng cờ của 149 nước thành viên WTO

Ngày 7/11/2006, cờ Việt Nam đã tung bay chung cùng cờ của 149 nước thành viên WTO

>>Tiếp tục một cách kiên định và sáng tạo con đường xã hội chủ nghĩa (Phần 1)

II. Thế giới đổi thay, thời đại không thay đổi.

" Thế giới đổi thay" nói ở đây chủ yếu liên quan đến sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu vào cuối thế kỷ trước đưa đến sự đảo lộn cả trật tự thế giới. Còn "Thời đại không thay đổi" là nói: mặc cho thế giới đã đổi thay, nhưng thời đại với tính chất là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mở đầu từ cách mạng Tháng Mười Nga (năm 1917) thì không thay đổi. Nhận thức cặn kẽ những đặc điểm lớn này của "thời thế” là tiền đề xuất phát rất quan trọng để hiểu con đường Đảng ta, đất nước ta tiếp tục đi tới và cũng để bác bỏ quan điểm "phủ định" thời đại. Điều quan trọng nữa là từ đó rút ra những bài học quá khứ cần thiết, những bài học đầy giá trị hào hùng, cả không ít bài học cay đắng. Phải coi đây là một cuộc đại tổng kết lịch sử, đại tổng kết thực tiễn.

1. Sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, sự kiện bi thảm nhất ở thế kỷ 20 là một tổn thất lớn chưa từng có đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, các dân tộc đang đấu tranh cho độc lập tự do trên toàn thế giới. Nó làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng trên toàn cầu, có lợi cho chủ nghĩa đế quốc, bất lợi cho các lực lượng cách mạng. Các thế lực đế quốc phương Tây hí hửng tuyên bố chủ nghĩa xã hội đã cáo chung, chủ nghĩa Mác-Lênin đã chết. Họ không dấu diếm ý đồ thiết lập “trật tự thế giới mới" do Mỹ đứng đầu và không còn ai làm đối trọng.

Song, lịch sử trả lời thẳng : hoàn toàn không có chuyện "cáo chung". Bước tiến của cách mạng chậm lại, song không thế lực nào có thể quay ngược bánh xe lịch sử.

Khi Liên Xô mới sụp đô, Đảng ta đã sớm rút ra hai loại nguyên nhân: nguyên nhân sâu xa và nguyên nhân trực tiếp.

Nguyên nhân sâu xa là trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những thành tựu vĩ đại, đã có những nhược điểm và khuyết điểm to lớn về mô hình xáy dựng phát triển- chậm được phát hiện và khắc phục, gây ra tình trạng trì trệ kinh tế-xã hội, dẫn tới khủng khoảng. Nguyên nhân chú yếu và trực tiếp là, trong cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc sai lầm rất nghiêm trọng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là đường lối xét lại, phản bội chủ nghĩa Mác-Lênin ở một số người lãnh đạo cao nhất. Chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế vốn không lúc nào ngừng chiến lược chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội, lợi dụng những khó khăn và đường lối sai lầm của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, họ đẩy mạnh chiến lược "diễn biến hoà bình" cực kỳ thâm độc, can thiệp toàn điện, vừa tinh vi, vừa trắng trợn vào nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa. Cuối cùng chủ nghĩa đế quốc đã không đánh mà thắng. Dĩ nhiên, chúng không thể làm được điều này, nếu cải tổ có đường lối đúng đắn, nếu 20 triệu đảng viên cộng sản có tinh thần cảnh giác cách mạng và sức chiến đấu cao, không để cho bọn xét lại và phản bội thao túng cơ quan lãnh đạo của Đảng; nếu có sự cố kết chặt giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Vấn đề xác định mô hình của chủ nghĩa xã hội là một trong những vấn đề khó nhất và phức tạp nhất của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều này các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã từng báo trước. Ngay trước cách mạng Tháng Mười, Lênin đã viết: "Chúng ta không kỳ vọng rằng Mác hay những người theo chủ nghĩa Mác đều hiểu biết mọi mặt cụ thể của con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Như thế sẽ là phi lý. Chúng ta chỉ biết phương hướng của con đường đó và những lực lượng giai cấp nào dẫn đến con đường đó, còn như về cụ thể và trên thực tế con đường đó ra sao, thì kinh nghiệm của hàng triệu con người sẽ chỉ rõ, khi họ bắt tay vào hành động"(4). Như vậy, xác định đúng phương hướng cách mạng là rất cơ bản, nhưng vẫn chưa đủ để xây dựng được chủ nghĩa xã hội. Còn phải cụ thể hoá thành "mô hình" (bao gồm cơ cấu, cơ chế, hình thức, bước đi...) và biết điều chỉnh, thay đổi mô hình khi điều kiện thực tế thay đổi và đòi hỏi.

Đánh giá mô hình đầu tiên của chủ nghĩa xã hội được áp đụng ở Liên Xô là vấn đề rất không đơn giản, đòi hỏi có quan điểm lịch sử cụ thể thật sáng suốt. Một số người thông qua phê phán “mô hình" cốt để xoá toẹt mọi thành tựu của chủ nghĩa xã hội và phủ nhận bản thân chủ nghĩa xã hội, cả hiện thực, cả lý luận.

Mô hình đầu tiên của chủ nghĩa xã hội ra đời ở Liên Xô trong bối cảnh đặc biệt. Từ sau Cách mạng Tháng Mười đến kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất. Điều kiện xây dựng chế độ mới cực kỳ khó khăn phức tạp: nền kinh tế lạc hậu bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh thế giới thứ nhất, tiếp đến là nội chiến, rồi chiến tranh can thiệp của 14 nước đế quốc, bị bao vây về kinh tế và về mọi mặt v.v... Mặc đù vào đầu những năm 20, Lênin sáng suốt đã đề ra Chính sách kinh tế mới, nhưng đường lối đúng đắn này sau khi Lênin mất không được quán triệt thực hiện. Hơn nữa, chưa được bao lâu thì từ cuối những năm 20 đầu những năm 30, triệu chứng cuộc chiến tranh thế giới mới ngày càng lộ rõ. Trong bối cảnh ấy, phải nhanh chóng biến nước Nga lạc hậu thành cường quốc công nghiệp, vừa để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ tình trạng lạc hậu, vừa để chuẩn bị đối phó với nguy cơ chiến tranh đang đến gần. Giải quyết vấn đề này và giải quyết cho được trong một thời gian ngắn nhất - đó là mệnh lệnh sống còn đặt ra trước vận mệnh Tổ quốc Xô Viết và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Trong những điều kiện nghiệt ngã như vậy, nhà nước Xô viết không thể không áp dụng cơ chế kế hoạch hoá tập trung cao, một cơ chế cho phép huy động tối đa các lực lượng xây dựng, sáng tạo. Ai cũng biết, Liên Xô đã hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá với thời gian chưa đầy 20 năm, trong đó quá nửa thời gian là nội chiến, chống chiến tranh can thiệp và khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Chỉ có chủ nghĩa xã hội phát huy cao độ tinh thần anh dũng, hy sinh của hàng trăm triệu quần chúng nhân dân mới thực hiện được kỳ tích như vậy. Không thể phủ nhận vai trò lớn lao có ý nghĩa lịch sử của mô hình đầu tiên này của chủ nghĩa xã hội.

Sai lầm chủ yếu dẫn đến sự trì trệ là chậm phát hiện và chậm sửa chữa những khuyết tật của mô hình, duy trì quá lâu mô hình đó nhất là khi nền kinh tế đã cạn khả năng phát triển theo chiều rộng, đòi hỏi phải chuyển sang thời kỳ phát triển theo chiều sâu. Khi mà cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật mới được chủ nghĩa tư bản nhanh chân hơn đi trước.

Khuyết tật lớn của mô hình là đã tuyệt đối hoá cơ chế kế hoạch hoá tập trung cao, tuyệt đối hoá nguyên tắc tập thể, coi nhẹ vai trò chủ động và sáng kiến cá nhân, chối từ một cách chủ quan duy ý chí nền sản xuất hàng hoá, cơ chế thị trường, thực hiện chế độ bao cấp tràn lan, triệt tiêu động lực lợi ích trực tiếp, do đó triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo của các đơn vị kinh tế và cá nhân người lao động. Hậu quả của sự kéo dài cơ chế tập trung quan nêu, bao cấp là nền kinh tế Liên Xô từ chỗ là một nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới với sự tiến bộ khoa học và kỹ thuật đạt nhiều đỉnh cao, đã lâm vào tình trạng trì trệ, tốc độ phát triển chậm đần, sức sản xuất ngày càng tụt hậu, hiệu quả kinh tế ngày càng thua kém các nước tư bản, đời sống nhân dân ngày càng khó khăn, nền kinh tế rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Trong khi gặp khó khăn về kinh tế, nhà nước xã hội chủ nghĩa hùng mạnh nhất này vẫn phải dành một tỷ lệ ngân sách quá lớn cho quốc phòng trước sự thách thức chạy đua vũ trang của Mỹ.

Sai lầm, khuyết tật gắn với mô hình cũ không chỉ trên lĩnh vực kinh tế. Nó còn thể hiện ở hệ thống chính trị, ở phương thức lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của nhà nước, ở quan hệ giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân. Một trong những khuyết điểm lớn của mô hình cũ là không phát huy được tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm nghiêm trọng. Chủ nghĩa quan liêu hoàn toàn trái ngược với bản chất chủ nghĩa xã hội, nhưng với cơ chế cũ thì không có cách gì ngăn chặn sự phát triển của nó.

Do chậm đổi mới cơ chế kinh tế, cơ chế quản lý, hệ thống chính trị và mối quan hệ gắn bó với nhân dân, nên hậu quả là Liên Xô đang trên đà rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế so với các nước tư bản phát triển thì từ giữa những năm 70 tình hình diễn ra theo chiều hướng ngược lại. Sự thua kém rõ rệt của Liên Xô thể hiện trong lĩnh vực công nghệ và năng suất lao động. Mà đây lại là yếu tố như Lênin nói, xét đến cùng quyết định thắng lợi hoàn toàn của chế độ mới.

Chủ nghĩa giáo điều, sự xơ cứng trong tư duy lãnh đạo dẫn tới chậm phát hiện các sai lầm. Người ta cũng đã thi hành một vài cải cách, nhưng những cải cách đó không cơ bản, không giải quyết trúng các vấn đề, lại phạm những sai lầm mới về chính trị và kinh tế, trượt từ tả sang hữu.

Những sai lầm chủ quan nói trên là nguyên nhân sâu xa làm chế độ xã hội chủ nghĩa suy yếu, cuối cùng rơi vào khủng hoảng. Đó không phải những sai làm, khuyết tật do bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa Mác-Lênin sinh ra, trái lại do quan niệm giáo điều, chủ quan duy ý chí đi ngược lại tinh thần duy vật biện chứng, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Chúng ta cho rằng trong tình hình chủ nghĩa xã hội trì trệ và khủng hoảng do những sai lầm, khuyết tật của mô hình cũ thì "cải tổ" nhằm thay đổi mô hình của chủ nghĩa xã hội là tất yếu. Cải tổ là tất yếu nhưng sụp đổ thì không là tất yếu. Vấn đề ở chỗ cải tổ thế nào, nhằm mục đích gì, theo đường lối nào. Lịch sử không có chữ “nếu”, nhưng lịch sử cung cấp những bài học hào hùng hoặc cay đắng không thể bỏ qua. Nếu cải tổ được thực hiện theo một đường lối đúng đắn, thật sự mác xít lêninnít về chính trị, tư tưởng và tổ chức, không phạm những sai lầm cực kỳ nghiêm trọng như đã diễn ra thì làm sao Liên bang Xô Viết có thể sụp đổ, đến nỗi chính phương Tây họ cũng không ngờ! Vì vậy, việc coi sự sụp đổ ấy là "sự cáo chung” của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác-Lênin, là kết thúc thời đại lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới, là vũ đoán, hoàn toàn vô căn cứ.

2. Thảm hoạ sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu cho thấy sự ra đời của một chế độ mới không bao giờ là một quá trình suôn sẻ, êm thấm, trơn tru. Nó ra đời trong sự liên tục tìm tòi và thể nghiệm bản thân, trong cuộc đấu tranh phức tạp, quyết liệt và dai dẳng giữa mới và cũ và với những thế lực thù địch bên ngoài, bên trong luôn tìm cách xoá bỏ nó. Trong quá trình tìm tòi, thể nghiệm và đấu tranh ấy, có khi do sai lầm chủ quan, có khi do tương quan lực lượng, có khi do bối cảnh chung không thuận lợi, có khi do tác động kết hợp cả mấy nhân tố ấy mà chế độ mới tạm thời phải lùi bước hoặc thất bại. Cách mạng tư sản mà điển hình là cách mạng Pháp đã diễn ra như vậy. Kể từ năm 1789, trải qua bao biến cố thăng trầm, phục hồi và chống phục hồi, khi nghiêng tả khi ngả sang hữu (theo chuẩn tư sản lúc đó) cuối cùng phải đến tháng 2 năm 1848, nghĩa là mất gần 60 năm, nền chuyên chính tư sản mới được xác lập tuyệt đối và hoàn toàn. Lịch sử ra đời chế độ tư bản đã như vậy. Đối với chế độ xã hội chủ nghĩa càng như vậy bởi chủ nghĩa xã hội là một chế độ hoàn toàn mới về chất so với mọi chế độ bóc lột.

VI Lê nin chỉ rõ : “Sự xuất hiện một giai cấp mới trên vũ đài lịch sử với tư cách là người lãnh đạo xã hội, không bao giờ diễn ra mà không có một thời kỳ “tròng trành” hết sức dữ đội, một thời kỳ chấn động, đấu tranh và bão táp, đó là một mặt; mặt khác không bao giờ diễn ra mà không có một thời kỳ mò mẫm, thí nghiệm, do dự, ngả nghiêng trong việc lựa chọn những phương pháp mới đáp ứng đúng với tình thế khách quan mới"(5). Đối với phong trào cách mạng thế giới kể từ Cách mạng Tháng Mười, nhất là từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, chúng ta đã quen như thấy một mạch đi lên, cao trào nối tiếp cao trào, ba dòng thác cách mạng không ngừng tiến công. Một thời gian dài chúng ta chỉ thấy tình hình thuận buồm xuôi gió, do đó khi cách mạng gặp trắc trở, lại là trắc trở cực lớn như sự đổ vỡ cả một mảng lớn chủ nghĩa xã hội thì, ở nhiều người, cú sốc thật kinh hoàng ghê gớm! Đây là bài học hết sức lớn về nhận thức chính trị.

Trong thời kỳ rất phức tạp hiện nay của tiến trình lịch sử thế giới, người cộng sản kiên định vẫn khẳng định thế giới đổi thay nhưng thời đại không thay đổi tính chất là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mở đầu từ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917.

Học giả Mỹ Fukuyama cho rằng Liên Xô sụp đổ có nghĩa "lịch sự đã kết thúc" với sự tồn tại vĩnh hằng của chủ nghĩa tư bản. Quan điểm đó đã bị chính ngay giới khoa học phương Tây bác bỏ gần như ngay lập tức khi mới ra đời bởi nó thể hiện tính hấp tấp vội vàng, quá ư vô căn cứ. Lịch sử xã hội loài người không ngừng vận động tiến lên thông qua những mâu thuẫn mà xét cho cùng là mâu thuẫn giữa sức sản xuất với quan hệ sản xuất. Chừng nào còn chủ nghĩa tư bản, còn những mâu thuẫn nan giải của chủ nghĩa tư bản như hiện nay và, cùng với quá trình chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn toàn cầu hoá, những mâu thuẫn ấy ngày càng tích luỹ sâu sắc và mở rộng, thì lịch sử vẫn không ngừng vận động và, theo quy luật lịch sử - tự nhiên, chỉ có thể vận động theo hướng chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ tiêu vong và được thay thế bằng chủ nghĩa xã hội.

Lại có đồng chí cho rằng với thực trạng thế giới hiện nay, sau khi Liên Xô tan rã, không cần nhắc lại nữa định nghĩa thời đại vì chủ nghĩa xã hội trên thế giới còn rất xa vời, khẳng định thời đại lúc này không ích gì, trái lại dễ gây ảo tưởng chủ quan, phiêu lưu trong hành động thực tế. Quan điểm này không có sức thuyết phục. Thời đại nếu đã không còn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội thì sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của chúng ta không còn cơ sở lịch sử thế giới khách quan và những người cách mạng mất đi một cơ sở vững chắc cho niềm tin lý tưởng ở quy luật lịch sử và tiền đồ cách mạng. Quan niệm thời đại nếu không rõ ràng, chính xác thì không thể có phương hướng cách mạng rõ ràng, chính xác. Sự nghiệp cách mạng và con đường phát triển đi lên của các dân tộc sẽ không thể giành thắng lợi nếu thiếu tầm nhìn xa trông rộng và nếu không được đặt đúng quỹ đạo thời đại. Trên phương diện này, dân tộc ta đã có bài học lịch sử có thể nói mang tầm kinh điển. Thất bại nối tiếp thất bại của các phong trào giải phóng dân tộc chống Pháp những thập niên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có nguyên nhân sâu xa ở chỗ các sĩ phu trí thức cầm đầu các phong trào hồi bấy giờ, mặc dù nhiệt huyết yêu nước và chí khí đấu tranh có thừa, nhưng nhận thức về thế giới còn hạn hẹp - người thì vẫn tưởng như thời đại phong kiến đang còn, người thì coi thời đại tư sản vẫn đang lên, người thì chỉ biết chỗ dựa là nông dân một vùng nghèo rừng núi, không thấy thiên hạ, đại cục v.v…

Trong khi đó, Nguyễn Ái Quốc bôn ba khắp thế giới để quan sát và tìm đường, qua thực tiễn thống trị tàn bạo phổ biến của chủ nghĩa đế quốc và dưới ánh sáng Cách mạng Tháng Mười Nga, đã nhận thức đúng thời đại mới là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, từ đó Người chủ trương đưa cách mạng Việt Nam vào đúng giữa dòng thời đại. Cùng với luận điểm "Không có gì quý hơn độc lập tự do”, luận điểm: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản"(6) tôi nghĩ đó là luận điểm gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh; nếu ai quên đi thì căn bản không thể hiểu đúng tư tưởng Hồ Chí Minh, không thể hiểu nguyên lý cơ bản nhất của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nguyên lý ấy là nền tảng Cương lĩnh chính trị, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam gần 80 năm nay.

Trái với quan điểm cho rằng ngày nay không cần và không nên nhắc lại định nghĩa về thời đại, chúng tôi cho rằng trong tình hình thế giới cực kỳ rối ren, phức tạp và đầy những biến động bất trắc hiện nay, càng cần khẳng định lại mạnh mẽ nội dung và tính chất căn bản của thời đại, nếu không cách mạng sẽ mất phương hướng, sẽ phải mò mẫm, vấp váp và không tránh khỏi thất bại. Trong Đảng, trong cán bộ lãnh đạo, trong nghiên cứu lý luận, trong các cơ quan tham mưu về quan hệ quốc tế cần nhận thức thấu suốt vấn đề; tất nhiên cần biết kết hợp tính kiên định về nguyên tắc chiến lược với sự tinh tế, mềm dẻo, khôn ngoan trong sách lược thực tiễn.

Quả đang có ý kiến cho rằng phải có quan niệm mới về thời đại thay cho quan niệm cũ đã lạc hậu, đã lỗi thời, đã bị lịch sử vượt qua. Thời đại hiện nay, theo họ xác đinh, là thời đại hậu công nghiệp, cũng gọi là thời đại văn minh hậu công nghiệp hay văn minh tin học, văn minh trí tuệ v.v... Tất nhiên, không có gì sai ở bản thân các khái niệm đó. Những khái niệm này rất có ý nghĩa và đầy nội dung bổ ích khi dùng đúng chỗ cần thiết, nhất là trong - các công trình nghiên cứu kinh tế cụ thể, xã hội học cụ thể. Những người mác-xít tuyệt đối không xem nhẹ cách mạng khoa học công nghệ và kinh tế tri thức, thiếu những cái đó không thể có chủ nghĩa xã hội hiện đại.

Có điều cần phân biệt rõ: khái niệm thời đại văn minh trong các trường hợp trên thực chất và chủ yếu là nói về văn minh kỹ thuật, chúng chưa đưa lại bức tranh xã hội toàn vẹn và sự vận động lịch sử xã hội loài người như một tổng thể, chưa thể xác định tính chất các chế độ xã hội. Cách tiếp cận theo nền văn minh không cho phép đi sâu vào bản chất, nguồn gốc sâu xa, các động lực thực sự của sự chuyển biến hợp quy luật từ chế độ xã hội này lên chế độ xã hội khác, từ thời đại lịch sử này lên thời đại lịch sử khác, cao hơn. Nói "tiến cùng thời đại" mà không xuất phát từ nội dung, bản chất định nghĩa thời đại cũng là một khái niệm mơ hồ, không rõ thời đại nào?

Chỉ có chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa duy vật lịch sử, mới có thể giúp nhận thức thâm nhập sâu vào bên trong quá trình lịch sử, từ đó phát hiện ra lôgíc của lịch sử và trên cơ sở đó mới giúp nhận thức tái hiện được một cách thật sự khoa học bản chất các thời đại lịch sử xã hội thế giới. Ta biết rằng chủ nghĩa Mác xuất phát từ chỗ trong sự sản xuất xã hội, con người không chỉ có quan hệ với tự nhiên mà còn có những quan hệ nhất định, tất yếu giữa người với người, tức quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất hợp thành phương thức sản xuất, nó là cơ sở kinh tế trên đó mọc lên kiến trúc thượng tầng chính trị, tư tưởng, pháp luật, văn hoá v.v… và chính phép biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là động lực cơ bản của sự vận động lịch sử, là nguồn gốc sâu xa của các cuộc cách mạng xã hội, đưa đến sự chuyển biến từ hình thái kinh tế-xã hội này lên hình thái kinh tế-xã hội khác cao hơn. Lý luận mác xít về năm hình thái kinh tế - xã hội chính là kết quả khái quát quá trình vận động tiến lên của lịch sử thế giới, nó là lôgích của lịch sử xét trên quy mô toàn thế giới (tất nhiên có những trường hợp ngoại lệ). Lịch sử thế giới không gì khác là lịch sử ra đời, phát triển, rồi suy vong của các hình thái kinh tế-xã hội, là lịch sử thay thế lẫn nhau hợp quy luật giữa các hình thái kinh tế-xã hội từ thấp lên cao. Đó chính là cơ sở khách quan, khoa học, cơ sở thực tiễn và lý luận để nói về thời đại, để xác định các thời đại lịch sử. Bàn về thời đại lịch sử xã hội, do đó, không thể không xuất phát từ cách tiếp cận hình thái kinh tế-xã hội. Phương pháp tiếp cận này không đối lập và loại trừ phương pháp tiếp cận theo nền văn minh, trái lại cả hai còn bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Chẳng phải Ăng-ghen đã từng đề cập thời đại mông muội, thời đại dã man, thời đại văn minh trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu của nhà nước đó sao! Như vậy hoàn toàn có thể nói đến văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh hậu công nghiệp. Hai phương pháp tiếp cận hình thái và tiếp cận theo nền văn minh có thể bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau, nhưng bàn về thời đại lịch sử xã hội thế giới thì căn bản phải dựa vào phương pháp tiếp cận hình thái, dựa vào phương pháp luận duy vật lịch sử là phương pháp duy nhất khoa học, không gì thay thế được.

Định nghĩa thời đại chúng ta là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội dựa chắc trên cơ sở phương pháp luận khoa học đó.


(Còn tiếp)
Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất