Thứ Sáu, 29/11/2024
Diễn đàn
Thứ Sáu, 19/2/2010 11:4'(GMT+7)

Tiếp tục thể chế hoá, hiện thực hoá cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ

Nhân dân hăng hái tham gia các cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp và Quốc hội. Ảnh minh họa

Nhân dân hăng hái tham gia các cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp và Quốc hội. Ảnh minh họa

1. Nhận thức chung về cơ chế

Cơ chế tổng thể “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” được nêu lên lần đầu tại Đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1986, mà sau này, Cương lĩnh 1992 đã tiếp tục vận dụng và phát triển. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) đã khẳng định: “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý thành cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội”(1). Ở đây xin lưu ý các nội dung rất cơ bản sau:

Một là, nhấn mạnh quan hệ không thể tách rời của ba nhân tố tạo nên cơ chế chung quản lý toàn bộ xã hội.

Hai là, mục tiêu của cơ chế này phải đạt tới là thực hiện được yêu cầu cao nhất “tất cả quyền lực thuộc về nhân dân” (xin lưu ý: tại Đại hội VI, cụm từ “nhân dân làm chủ” được đặt ở vị trí thứ hai, sau “Đảng lãnh đạo”; trong các văn kiện sau này, đã chuyển xuống thứ ba).

Ba là, trong cơ chế chung đó, Đảng vừa là lực lượng lãnh đạo, vừa là một bộ phận trong cơ chế, của cả hệ thống chính trị, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Bốn là, cơ chế này chính là mô hình khái quát nhất của hệ thống chính trị của chúng ta, hệ thống đó bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể nhân dân (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam…)

Có thể khẳng định rằng, từ năm 1986 đến nay, quá trình đổi mới của chúng ta, trên lĩnh vực hệ thống chính trị, về mặt lý luận, chính là quá trình tìm tòi để tiếp tục làm rõ hơn, toàn diện hơn, cụ thể hơn cơ chế tổng thể trên; và về mặt thực tiễn là giải quyết những vấn đề mới đặt ra và sự nỗ lực hiện thực hóa cơ chế đó trong đời sống xã hội. Và xin lưu ý rằng, cả trên hai phương diện – lý luận và thực tiễn – mặc dầu có những bước tiến thực sự, song còn không ít các vấn đề mới đặt ra chưa được lý giải và xử lý, còn bị “treo” lại, chưa giải quyết được.

2. Những bước bổ sung, cụ thể hóa và phát triển

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) đã khẳng định mục tiêu của cơ chế tổng thể trên, tức là của toàn bộ hệ thống chính trị của nước ta, là: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”. (2)

Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994), quan điểm sau đây lần đầu tiên được khẳng định: “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Như vậy, phương hướng cơ bản để thực thi cơ chế tổng thể “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, và để phát triển hệ thống chính trị trong xã hội là tiếp tục mở rộng và thực thi dân chủ, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân, mở rộng và thực thi sự tham gia của công dân vào việc quản lý các công việc của nhà nước và xã hội; tăng cường sự kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với tổ chức đảng, nhà nước và cán bộ; hoàn thiện bộ máy nhà nước, đồng thời nâng cao tính tích cực của các đoàn thể và tổ chức xã hội. Đó là điểm mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển của tư duy và nhận thức của Đảng về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và về một nội hàm rất cơ bản trong cơ chế tổng thể “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.

Thời gian qua, Đảng thực sự quan tâm đến việc cụ thể hóa, thể chế hóa sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) tháng 8-2007 đã tập trung xác định “đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị”, đặc biệt đối với Chủ tịch nước, Quốc hội, Chính phủ và các tổ chức chính trị - xã hội nhằm mục tiêu kép, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và phát huy cao nhất vai trò, chức năng của các cơ quan nhà nước, phân định rạch ròi từ Trung ương đến cơ sở quan hệ giữa lãnh đạo của Đảng và chức năng, nhiệm vụ của các thành tố khác trong hệ thống chính trị. Đó là một bước tiến quan trọng.

Bước tiến đáng mừng nhất là trong quá trình cụ thể hóa cơ chế thể hiện ở việc xây dựng, ban hành và bước đầu thực thi có hiệu quả nhất định quy chế dân chủ ở cơ sở, xác định dân chủ trực tiếp gắn với dân chủ đại diện của công dân.

Thành tựu bao quát, nổi bật nhất của quá trình nhận thức, bổ sung, phát triển đồng thời chỉ đạo triển khai thực hiện cơ chế tổng thể này trong những năm qua không chỉ thể hiện trong việc xác định vị trí, vai trò, chức năng của từng nhân tố trong ba nhân tố trên, mà đó còn là những cố gắng tập trung làm rõ và thực hiện nội dung dân chủ xã hội chủ nghĩa trong đời sống xã hội trên các lĩnh vực cơ bản về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Bởi vì, dân chủ ở nước ta trước hết và chủ yếu được thực thi bằng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong cơ chế tổng thể không thể tách rời nhau giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân “thành cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội”. Dân chủ được phát huy đến mức nào sẽ là nhân tố quan trọng góp phần cho tính đúng đắn của sự lãnh đạo của Đảng và đảm bảo cho việc giữ gìn bản chất “của dân, do dân, vì dân” của Nhà nước pháp quyền của chúng ta.

3. Một vài suy nghĩ thêm về việc thực hiện cơ chế tổng thể trong thời gian tới

Chúng ta đã có những lý giải ngày càng cụ thể hơn về quan hệ cơ bản trong cơ chế tổng thể này và bước đầu đã thực thi trong đời sống. Tuy vậy, thực tiễn đang đòi hỏi phải tiếp tục nhận thức rõ hơn, sâu hơn quan hệ đó. Trước hết, cần hiểu cơ chế này như thế nào cho thật trúng với mục tiêu cao nhất cần đạt được khi thực hiện nó.

Cần phải hiểu cho đúng, hiểu một cách biện chứng mối quan hệ giữa ba nhân tố (Đảng, Nhà nước, nhân dân) trong cơ chế trên. Lâu nay, có khuynh hướng hoặc là nhìn nhận quan điểm trên chỉ như là khẩu hiệu chính trị hoặc là đánh đồng ngang nhau cả ba nhân tố, lý giải có phần lúng túng quan hệ hiện thực giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý với nhân dân làm chủ. Thậm chí có khuynh hướng chỉ nhấn mạnh một chiều vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, coi đó như là điều kiện tất yếu và hình như không cần phải làm gì thêm nữa để dẫn tới nhân dân làm chủ. Từ đó, những cơ chế, chính sách, điều kiện đảm bảo cho “quyền lực thuộc về nhân dân” không được quan tâm đúng mức.

Phải chăng, mối quan hệ biện chứng ở đây phải là: nhân dân làm chủ trên cơ sở sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và sự lãnh đạo, quản lý đó phải tuân thủ một nguyên lý tối cao là thực thi và tôn trọng “dân là gốc”, “dân làm chủ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân…” Nói tóm lại, “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Từ đó, có lẽ, phải nhấn mạnh hơn nữa nội dung này trong cơ chế trên “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý nhằm mục tiêu thực thi quyền làm chủ của nhân dân”. Nhân dân làm chủ vừa là một thành tố không tách rời trong cơ chế tổng thể trên, vừa phải là mục tiêu cao nhất khi triển khai thực hiện cơ chế đó trong thực tiễn. Nhân dân tin tưởng và trao quyền lãnh đạo xã hội cho Đảng để Đảng thực hiện khát vọng tự do, dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân lập ra Nhà nước thông qua cơ chế bầu cử dân chủ và tự do, từ đó nhân dân ủy quyền, ủy nhiệm cho cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước. Do đó, tất yếu là Nhà nước – với ý nghĩa của dân, do dân, vì dân – phải có trách nhiệm bảo đảm để mọi công dân thực hiện tốt nhất các quyền cơ bản của mình. Như vậy, hiệu quả thực sự của sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước chính là đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân.

Không phải tổ chức nhà nước cấp nào và tất cả các cán bộ, công chức cũng nhận được yêu cầu này. Từ cách đặt vấn đề như trên, chúng ta có thể nêu một số nhận định khái quát về những gì đã làm được, những gì làm chưa đúng, chưa tốt và những gì mới, phức tạp, còn vướng mắc cần tiếp tục tháo gỡ, giải quyết để ý tưởng, quan điểm “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” được hiện thực hóa trong đời sống.

Xét trên yêu cầu này, chúng ta nhận thấy, mặc dù, dân chủ hóa xã hội đã có bước tiến đáng mừng, song vẫn còn nhiều điều đáng lo ngại.

Nguyên lý nhân dân làm chủ, nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân do mình bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân luôn được coi là hiển nhiên, song trên thực tế, bằng cách nào để nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước lại chưa được định hình, thể chế hóa chặt chẽ và hệ thống, mang tính pháp lý cao. Do đó, việc nhân dân giám sát đối với chính quyền càng chưa có cơ chế rõ ràng và trên thực tế, việc giám sát này còn rất mờ nhạt, hạn chế.

Phải chăng, thời gian qua chúng ta mới chỉ tập trung xử lý quan hệ này theo chiều từ Đảng lãnh đạo đến Nhà nước quản lý và coi việc làm tốt hai khâu này là dẫn tới hệ quả tốt đẹp: nhân dân làm chủ. Có lẽ, cùng với xử lý quan hệ trên, cần phải làm rõ hơn, hiện thực hóa và thể chế hóa quan hệ từ nhân dân làm chủ tới Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý xuất phát từ luận điểm gốc trong tư tưởng Hồ Chí Minh: “quyền hạn và lực lượng đều ở nơi dân”. Tưởng rằng, đây chỉ là sự đảo ngược mệnh đề ngôn ngữ, nhưng thực chất, đó là yêu cầu mới đối với tư duy và cũng chính là đòi hỏi của thực tiễn. Những quy định về sự lãnh đạo của Đảng, quản lý nhà nước ngày càng rõ hơn, nguyên lý “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” tuy đã được khẳng định, nhưng trong thực tế nó chưa được làm rõ, cụ thể, sâu sắc về nội hàm, từ đó dẫn tới không ít sự lúng túng trong việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Đây là nguyên nhân sâu xa của việc quyền làm chủ của nhân dân chưa được tôn trọng và phát huy đầy đủ, xuất hiện tình trạng vừa thiếu dân chủ, vừa thiếu kỷ cương trong tổ chức xã hội hoặc biểu hiện dân chủ hình thức, dân chủ quá trớn, cực đoan cùng tồn tại trong các lĩnh vực đời sống xã hội. Những căn bệnh trầm kha như: tham nhũng, quan liêu, sách nhiễu dân, biến quyền lực của nhân dân giao phó cho các cơ quan, tổ chức nhà nước thành quyền lực của cá nhân để quấy nhiễu, hà hiếp dân… chưa được khắc phục.

Việc xác lập nền dân chủ ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng là phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Mặt khác, để có dân chủ và để thực hiện mục tiêu “quyền lực thuộc về nhân dân” trong điều kiện một đảng cầm quyền, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa dân chủ ở cấp trung ương và dân chủ ở cơ sở, trong đó, dân chủ ở cơ sở có tính nền tảng, dân chủ ở cấp trung ương có ý nghĩa quyết định. Ở đây, có liên quan trực tiếp đến vấn đề giám sát và phản biện xã hội của nhân dân, mà đại diện là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân. Thời gian qua, chúng ta có một bước tiến đầu tiên về xây dựng và thực thi quy chế dân chủ ở cư sở, nhưng còn bộc lộ lúng túng khi bàn định về quy chế dân chủ ở cấp trung ương.

Một vài ví dụ cụ thể: Theo nghị quyết Đại hội X, trong nhiệm kỳ này phải hoàn thiện quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân. “Xây dựng quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ”(3). Nhưng đến nay, sau nhiều lần dự thảo, quy chế đó vẫn chưa được thông qua. Hoặc như, mấy năm qua, luật về tổ chức các Hội đã được bàn bạc, tranh luận, dự thảo nhiều lần, nhưng vẫn chưa đi tới kết quả, còn bị “treo” lại vì quá nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau…

Chúng ta quen xử lý mối quan hệ Đảng, Nhà nước, nhân dân theo trình tự tưởng như là đầy đủ và hoàn chỉnh từ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý đến nhân dân làm chủ, mà chưa chú trọng đúng mức đến quan hệ từ nhân dân làm chủ như là mục tiêu cao nhất, đẹp nhất đến xác định Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý. Và từ đó, chưa tập trung thể chế hóa quan hệ này trong thực tiễn, do đó, quá trình hiện thực hóa luận đề “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” còn nhiều việc phải làm./.

GS.TS. Đinh Xuân Dũng
--------------------

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.109.

(2) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.19.

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Hà Nội 2006, tr.135.

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất