Trí thức Việt Nam, vì Nước, vì Dân theo tư tưởng - đạo đức - phong cách Hồ Chí Minh
Trách nhiệm vẻ vang nhưng cũng rất nặng nề đang đặt ra đối với đội ngũ trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển bền vững và hiện đại hóa đất nước.
Hơn ba mươi năm đổi mới, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng đã giành được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Nước ta đã ra khỏi tình trạng lạc hậu, kém phát triển, đã trở thành nước phát triển trung bình trong tương quan với các nước trong khu vực, quốc tế và thế giới, đang nỗ lực nâng cao trình độ phát triển, phấn đấu sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đội ngũ trí thức đã có những đóng góp xứng đáng, cùng với nhân dân cả nước làm nên những thành tựu to lớn đó. Đại hội XII của Đảng (tháng 1-2016) với những tổng kết lý luận - thực tiễn sâu sắc về 30 năm đổi mới, với những quyết sách quan trọng được thông qua, được ghi trong Nghị quyết Đại hội đã mở ra một thời kỳ phát triển mới của đất nước.
Đại hội lần thứ XII của Đảng khẳng định quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước, phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh và bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”(1).
Trách nhiệm của mỗi người trí thức và của tất cả đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa ở nước ta là phát huy lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, ý thức sâu sắc về thiên chức sáng tạo, nghĩa vụ và bổn phận công dân, đồng hành cùng dân tộc, nhập cuộc cùng nhân dân trong đổi mới, đem tài năng và nhiệt huyết của mình đóng góp xứng đáng nhiều hơn nữa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, góp phần thực hiện thắng lợi đường lối, nghị quyết của Đảng, xứng đáng với niềm tin cậy của Đảng và kỳ vọng của nhân dân đối với trí thức.
Thực hiện trách nhiệm vẻ vang và nặng nề ấy không chỉ là trách nhiệm chính trị trước Đảng, dân tộc và nhân dân của đội ngũ trí thức nước ta, nhất là trong bối cảnh thời cuộc hiện nay, khi phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ được đặt lên hàng đầu, là lợi ích tối cao của dân tộc mà còn là sự thôi thúc của tình cảm và đạo đức, của lương tâm, danh dự và phẩm giá nhân cách mà mỗi người trí thức chân chính yêu nước, thương dân coi đó là lý tưởng và lẽ sống của mình.
Bảy mươi năm về trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết hai văn kiện nổi tiếng, “Lời kêu gọi thi đua yêu nước”, ngày 1-5-1948 và “Lời kêu gọi thi đua ái quốc”, 11-6-1948 kêu gọi toàn thể các giới đồng bào, trong đó có trí thức tham gia, làm cho phong trào thi đua lan tỏa rộng khắp trong cả nước với mục đích “diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”, thực hành ba chủ nghĩa mà nhà cách mạng Tôn Văn đã nêu ra: dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc.
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc là hệ giá trị cốt lõi của phát triển mà Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời theo đuổi, phấn đấu, hy sinh vì Nước, vì Dân, Ái quốc - Ái dân. Đây cũng là những giá trị cao quý, kết tinh trong đó cả lý tưởng, lẽ sống, niềm tin và thể hiện thành hành động mà trí thức cùng với nhân dân mình, dân tộc mình phấn đấu thực hiện, để kháng chiến nhất định thắng lợi, kiến quốc nhất định thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua, ai thi đua là người yêu nước nhất. Người là hiện thân sinh động và cảm động nhất, nêu lên một tấm gương cao quý về thực hành, tự thực hành thi đua ái quốc, một đời vì Nước, vì Dân, đặt lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc và nhân dân lên cao nhất, trên hết, trước hết, dấn thân và dâng hiến trọn vẹn, toàn vẹn cho nền độc lập, tự do của Tổ quốc, cho hạnh phúc của dân tộc và nhân dân, hy sinh cả cuộc sống riêng tư của mình, tuyệt đối không màng danh lợi, đứng ngoài vòng danh lợi, để tận tâm và tận lực, để toàn tâm toàn ý phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Cho đến những năm tháng cuối đời, trong Di chúc để lại cho toàn dân, toàn Đảng mà Người khiêm nhường chỉ gọi là “một bức thư”, là “mấy lời để lại” cho đồng bào, đồng chí trước lúc đi xa, Người cũng chỉ nuối tiếc một điều, “chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
Là nhà tư tưởng kiệt xuất của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ vĩ đại và kính yêu của toàn dân, đồng thời là một trí thức lỗi lạc, uyên bác mà cả dân tộc tự hào, cả thế giới ngưỡng mộ, sự cao thượng và đức hy sinh của Người trở thành một tấm gương mẫu mực, một bài học lớn về nhân cách cho mỗi chúng ta noi theo, về trách nhiệm của trí thức trước dân tộc và thời đại, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng thi đua yêu nước của Người là nguồn sáng bền bỉ, thắp lên ngọn lửa của niềm tin và hy vọng cho đội ngũ trí thức nước nhà phát huy tài năng sáng tạo, rèn luyện bản lĩnh để cống hiến hết mình cho sự phát triển bền vững và nhanh chóng hiện đại hóa đất nước, cho sự trường tồn của dân tộc, đem tinh hoa trí tuệ Việt Nam, bản sắc tinh thần và tâm hồn Việt Nam như những giá trị nội sinh từ văn hóa đến với đông đảo bạn bè trên thế giới, thu hút thêm nhiều nguồn lực ngoại sinh, chuyển thành nội lực bảo đảm cho thành công của Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế. Trí thức Việt Nam, nhất là trí thức sáng tạo văn hóa nghệ thuật tự ý thức điều hệ trọng ấy.
Đạo đức Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng, đạo đức hành động cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là cả một tài sản tinh thần vô giá, là sức mạnh hiện hữu mà cũng là giá trị vĩnh hằng của dân tộc, mà mọi thế hệ người Việt Nam ra sức phát huy và phát triển. Trí thức Việt Nam, nhất là trí thức khoa học xã hội - nhân văn, trí thức trong nghiên cứu tư tưởng lý luận, trí thức giáo dục, y tế, hơn ai hết phải ra sức truyền bá, bảo vệ và phát huy những giá trị cao quý đó trong xã hội, tạo động lực tinh thần cho đổi mới và hội nhập.
Phong cách Hồ Chí Minh, nơi kết tinh tư tưởng, đạo đức của Người, nơi thể hiện sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, giữa khoa học với cách mạng và nhân văn, giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc với quốc tế và thời đại, tạo nên những dấu ấn đặc sắc của văn hóa Hồ Chí Minh, làm nên tầm vóc ảnh hưởng và hiệu ứng xã hội rộng lớn của Hồ Chí Minh không chỉ trong không gian dân tộc mà còn trong đời sống thế giới nhân loại, không chỉ ở thời gian đã qua, trong thế kỷ XX mà còn ở hiện tại ngày nay và chắc chắn còn lâu dài, mãi mãi. Bởi phong cách Hồ Chí Minh, nhất là sự tinh tế, sâu sắc và tinh thần khoan dung, hòa hợp trong văn hóa ứng xử của Người có sức hấp dẫn, thuyết phục, chinh phục lòng người đến kỳ diệu, được bao nhiêu học giả, chính khách tầm cỡ trên thế giới thừa nhận, được các tầng lớp dân chúng trong và ngoài nước ngưỡng mộ. Phong cách Hồ Chí Minh, bởi thế mà trở thành giá trị đặc trưng cho văn hóa Hồ Chí Minh, nhất là văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức, văn hóa ứng xử của Người với những giá trị bền vững, sức sống bền bỉ và ý nghĩa rộng lớn: Dân chủ - Đoàn kết và Đồng thuận, Sáng tạo - Đổi mới và Phát triển, Vị tha - Nhân ái và Khoan dung. Vậy là trong chỉnh thể Tư tưởng - Đạo đức - Phong cách Hồ Chí Minh, thấm nhuần trong toàn bộ di sản của Người, nhất quán trong hoạt động và ứng xử của Người, trong mọi mối quan hệ mà Người nhận biết và xử lý,... chúng ta ngày càng thấy rõ hơn, giá trị, sức sống và ý nghĩa từ tất cả những gì Người đã cống hiến cho Đảng, cho Nước, cho Dân và cho cả Nhân loại. Đó là thời đại Hồ Chí Minh, thời đại của giải phóng, phát triển và hiện đại hóa của Việt Nam do chính người dẫn dắt, tạo dựng, thúc đẩy, cổ vũ nhân dân mình thực hiện. Trí thức Việt Nam, nhất là trí thức lãnh đạo và quản lý, trí thức sáng tạo khoa học và nghệ thuật phải nhận rõ trọng trách và sứ mệnh vinh quang của mình trong việc truyền lửa và giữ lửa, ngọn lửa thiêng của di sản mà Người để lại cho dân tộc ta hôm nay, mai sau và mãi mãi, từ Việt Nam đến với bạn bè quốc tế, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
Trí thức Việt Nam cần phải đi tiên phong trong đổi mới tư duy, thúc đẩy hành động sáng tạo, cống hiến tài năng và trí tuệ của mình cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
Nói đến trí thức và đội ngũ trí thức là nói đến những con người có học vấn, học thức cao, tiêu biểu cho trí tuệ của dân tộc, lao động bằng trí óc, có năng lực sáng tạo. Họ nhạy cảm với cái mới và đổi mới, vì sự tiến bộ và phát triển của đất nước, dân tộc và xã hội.
Trí thức và đội ngũ trí thức không chỉ biểu hiện mình ở trình độ trí tuệ và sức sáng tạo mà còn phải thực sự tiêu biểu về đạo đức, nhân cách, trọng chân lý và đạo lý, trọng lương tâm, danh dự và phẩm giá con người.
Trong ý nghĩa đích thực của nó, trí thức và đội ngũ trí thức phản ánh diện mạo tinh thần của dân tộc. Giá trị nhân cách của trí thức chân chính gắn liền với những giá trị cao quý của văn hóa Chân - Thiện - Mỹ. Thực hiện trách nhiệm của mình đối với dân tộc và xã hội, điều đó cũng đồng thời nói lên vai trò quan trọng của trí thức đối với sự phát triển, hưng thịnh của đất nước. Lê Quý Đôn, nhà bác học lỗi lạc của Việt Nam ở thế kỷ thứ XVIII đã từng cảnh báo “phi trí bất hưng” khi đề cập đến những nhân tố quy định sự phát triển của đời sống xã hội: “phi nông bất ổn, phi công bất phú, phi thương bất hoạt và phi trí bất hưng”. Những trí thức ưu tú được coi là hiền tài, mà “hiền tài là nguyên khí của quốc gia” như đánh giá của Thân Nhân Trung. Thời đại nào, xã hội nào cũng cần đến trí thức, cũng coi trọng tài năng và phẩm hạnh của trí thức. Khi kỳ vọng rằng, “dân tộc Việt Nam nhất định phải trở thành một dân tộc thông thái” và “xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng là một xã hội văn hóa cao”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thấy nguồn trữ năng dồi dào và nguồn xung lực tinh thần mạnh mẽ để thực hiện lý tưởng cao cả đó ở trí thức và đội ngũ trí thức của nước ta. Tuy nhiên, không phải ai có học vấn và bằng cấp cao cũng đều là trí thức. Đó chỉ là điều kiện cần mà chưa đủ. Trí thức, nhất là những trí thức tiêu biểu được nhân dân quý trọng, xã hội thừa nhận và tôn vinh phải là những người nổi bật về năng lực sáng tạo, có ý chí và hoài bão lớn, đem tài năng và tâm huyết của mình cống hiến cho dân, cho nước. Những trí thức lớn đồng thời là những nhân cách lớn, thực học để có thực lực và thực tài. Họ lại rất khiêm nhường và giản dị, gần gũi, gắn bó mật thiết với nhân dân, đồng cảm và chia sẻ với cuộc sống và số phận nhân dân, nặng lòng “ưu thời mẫn thế” với dân tộc. Chân tài và thực đức, những người trí thức như thế sẽ không màng danh, không ham lợi, chỉ tận tâm tận lực, thậm chí thầm lặng trong lao động sáng tạo mong góp vào những thành quả hữu ích, hữu dụng cho đất nước phát triển, dân tộc phồn vinh và nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Cuộc đời và sự nghiệp, tư tưởng và đạo đức, bản lĩnh và phong cách Hồ Chí Minh chính là sự kết tinh và tỏa sáng của một nhân cách trí thức cao quý như thế, một hình mẫu nhân cách lý tưởng “ở đời thì phải thân dân, làm người thì phải chính tâm” cho tất cả chúng ta noi theo, làm theo.
Vì vậy, trách nhiệm của trí thức và đội ngũ trí thức ở nước ta hiện nay là phải đi tiên phong trong đổi mới tư duy, thúc đẩy hành động sáng tạo hướng tới mục tiêu phát triển bền vững và hiện đại hóa đất nước, nhất là trước yêu cầu hội nhập quốc tế ngày một mạnh mẽ.
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tới năm 2020, hướng tầm nhìn tới năm 2030, Đảng ta đã nhấn mạnh, phải tiếp tục đổi mới tư duy quyết liệt hơn nữa, phải vượt qua “những điểm nghẽn” của phát triển(2). Đó là điểm nghẽn về thể chế, trong đó có thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điểm nghẽn về hạ tầng kỹ thuật - công nghệ và điểm nghẽn về chất lượng nguồn nhân lực còn thấp kém. Đổi mới tư duy, thay đổi cách nghĩ là tiền đề nhận thức để thay đổi cách làm, cách thức quản lý kinh tế xã hội, tìm kiếm và thực hiện những đột phá để phát triển. Trí thức nhờ có ưu thế về học vấn, sự hiểu biết, tích lũy tri thức và cập nhật thông tin nên họ phải đi tiên phong trong đổi mới tư duy, khắc phục những giáo điều, chủ quan duy ý chí để phát triển tư duy khoa học sáng tạo, bám sát những biến đổi thực tiễn vốn rất mau lẹ, nhạy bén trước những đòi hỏi mới của thực tiễn để tìm tòi lý luận, phát triển lý luận mới. Giới trí thức khoa học qua nghiên cứu và tổng kết thực tiễn có trách nhiệm to lớn trước yêu cầu mà Đảng đề ra, đó là khắc phục tình trạng lạc hậu của lý luận, đem lý luận phục vụ cuộc sống, gắn lý luận với thực tiễn, chú trọng nghiên cứu dự báo để cung cấp kịp thời và chính xác những luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước.
Không chỉ giới lý luận và đội ngũ trí thức khoa học xã hội - nhân văn mà các nhà kỹ thuật - công nghệ, các trí thức chuyên gia thuộc các ngành khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, khoa học quản lý, bảo vệ tài nguyên và môi trường, các trí thức khoa học quân sự và an ninh, cùng đông đảo các nhà chuyên môn có trình độ cao, có kinh nghiệm, vốn sống phong phú từ các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa nghệ thuật,... đều có thể và cần phải tham gia các hoạt động tư vấn, phản biện (cả phản biện khoa học và phản biện xã hội) về các chủ trương, chính sách, các chương trình và dự án phát triển kinh tế - xã hội, các vấn đề liên quan đến quốc kế dân sinh. Chất lượng của đội ngũ trí thức quyết định trình độ phát triển của nền khoa học quốc gia và nền văn hóa dân tộc. Tiềm lực trí tuệ và năng lực lãnh đạo của Đảng, trình độ cũng như hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước được đáp ứng như thế nào cho ngang tầm nhiệm vụ, điều đó, một phần quan trọng tùy thuộc vào sự phát triển của khoa học, của lý luận quy định, từ nỗ lực đầy trách nhiệm của trí thức và đội ngũ trí thức nước nhà. Trong những năm gần đây, Đảng ta trong đường lối, nghị quyết của mình đã đặc biệt nhấn mạnh yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, thực hiện chiến lược phát triển bền vững, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tích cực chủ động hội nhập quốc tế để hiện đại hóa đất nước. Việt Nam tiếp thu kinh nghiệm của thế giới về phát triển bền vững trên cơ sở bảo đảm sự phát triển hài hòa dựa trên ba trụ cột: kinh tế, xã hội và môi trường, thực hiện triết lý phát triển nhân văn, lấy phát triển con người làm mục tiêu và động lực của phát triển bền vững. Thực tiễn và kinh nghiệm của hơn 30 năm đổi mới đã qua cũng như hiện nay, khi yêu cầu đặt ra là phải thực hiện đồng bộ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, coi phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng văn hóa, con người làm nền tảng tinh thần, tăng cường quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên(3) thì phải chú trọng cả phương diện chính trị và văn hóa để bảo đảm phát triển bền vững của Việt Nam. Các nghị quyết của Trung ương về xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, về đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân, về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, về đổi mới tổ chức bộ máy trong Đảng, Nhà nước và các đoàn thể trong hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, về chiến lược công tác cán bộ, đặc biệt cán bộ cấp chiến lược(4),... đều liên quan trực tiếp đến đội ngũ trí thức. Thực hiện các nghị quyết quan trọng đó của Đảng là trách nhiệm của toàn Đảng, trong đó có đội ngũ trí thức, trước hết là các đảng viên trí thức đang hoạt động trong nhiều lĩnh vực ở nước ta.
Trong cơ cấu xã hội đa dạng ở nước ta hiện nay, đội ngũ trí thức với số lượng đông đảo, trình độ ngày một nâng cao, được rèn luyện và trưởng thành trong thực tiễn đổi mới, trong hội nhập quốc tế, đang ra sức phát huy những khả năng sáng tạo của mình phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Những trí thức chuyên gia đầu ngành đang đóng vai trò nòng cốt, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và đồng thời phát huy tác dụng, ảnh hưởng của mình trong xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, nhất là đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trí thức trẻ tài năng và triển vọng để kế tục xứng đáng sự nghiệp của lớp người đi trước, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội hiện nay và mai sau.
Một trong những trọng trách cao cả của trí thức và đội ngũ trí thức nước ta là phải tham gia trực tiếp, đóng góp và cống hiến trực tiếp vào sự nghiệp đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống, thúc đẩy dân chủ hóa, thực hành dân chủ để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh, thực hành dân chủ rộng rãi sẽ là chiếc chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. Trí thức phải góp phần xứng đáng vào việc xây dựng môi trường pháp lý và nhân văn để thực hiện phát triển lành mạnh nền dân chủ ở nước ta, đem sức mạnh của dân chủ - pháp quyền, với tinh thần pháp luật là tối cao, thượng tôn pháp luật, kiểm soát quyền lực để quyền lực không bị tha hóa, không làm tổn hại tới dân chủ và quyền làm chủ của dân.
Trí thức xã hội chủ nghĩa, nhất là đội ngũ trí thức giáo dục, trí thức khoa học công nghệ, trí thức trong ngành y tế với yêu cầu y đức đặt lên hàng đầu, tri thức văn hóa nghệ thuật với thiên chức sáng tạo tinh thần, đem ánh sáng văn hóa “soi đường cho quốc dân đi” như Hồ Chủ tịch đã chỉ dẫn, là những trí thức góp phần quan trọng vào công cuộc chấn hưng giáo dục, chấn hưng đạo đức để chấn hưng dân tộc, thực hiện phát triển nhanh và bền vững như một quyết tâm chiến lược của Đảng và nhân dân ta.
Đại hội XII của Đảng đặt xây dựng chỉnh đốn Đảng, quyết tâm làm cho Đảng thực sự trong sạch vững mạnh, coi đây là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ của mọi nhiệm vụ trong nhiệm kỳ khóa XII. Lý tưởng, mục tiêu của Đảng đồng thời là định hướng giá trị cho lẽ sống và hoạt động của trí thức. Cùng với các tầng lớp nhân dân trong xã hội, đội ngũ trí thức nước ta cần nhận thức sâu sắc về trách nhiệm xây dựng Đảng của mình. Cũng như mọi đảng viên khác, các trí thức đảng viên phải gương mẫu trong thực hiện tư cách đảng viên đã được xác định trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX của Đảng. Đó là ba tư cách thống nhất trong chính thể nhân cách đảng viên: người lao động giỏi, người công dân gương mẫu và người chiến sĩ tiên phong trong đổi mới(5).
Mỗi người trí thức là một nhà chuyên môn. Đội ngũ trí thức với cơ cấu ngành nghề đa dạng, có mặt trong nhiều lĩnh vực quan trọng của đời sống. Hoạt động của trí thức là hoạt động sáng tạo. Tham gia đời sống chính trị, hơn ai hết trí thức phải tham chính một cách chủ động, tích cực, tự giác, thực hành dân chủ ở trình độ và chuẩn mực văn hóa dân chủ, nêu gương trong cộng đồng về kỷ luật, kỷ cương, pháp chế, thực hiện quyền tự do dân chủ của cá nhân trong hành lang pháp luật và bảo vệ quyền và lợi ích chân chính của nhân dân trong cộng đồng xã hội, bảo vệ đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ nhân dân. Đó là trách nhiệm chính trị mà cũng là đạo đức, văn hóa đạo đức của trí thức, của đội ngũ trí thức nước ta./.
----------------------------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 219 - 220
(2) Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tới năm 2020, Văn kiện Đại hội XI
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 17
(4) Các nghị quyết Trung ương: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về văn hóa, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về giáo dục đào tạo, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về xây dựng Đảng, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XII về cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ
(5) Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX về Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn
GS, TS. Hoàng Chí Bảo
Chuyên gia cao cấp, nguyên ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương
Nguồn: TCCS