Thứ Sáu, 20/9/2024
Tuyên truyền
Thứ Năm, 25/2/2010 12:54'(GMT+7)

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản của C.Mác và Ph.Ăngghen với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay

Các Mác và Ph.Ăngghen

Các Mác và Ph.Ăngghen

Cuối 1847, Các Mác và Phriđích Ăngghen viết tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và tác phẩm được xuất bản lần đầu vào năm 1848. Trong Lời tựa viết cho bản tiếng Đức xuất bản năm 1872, Mác và Ăngghen đã nêu rõ sự cần thiết ra đời tác phẩm. “Liên đoàn những người cộng sản - một tổ chức công nhân quốc tế, trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, tất nhiên chỉ có thể là một tổ chức bí mật - đã uỷ cho những người ký tên dưới đây, là đại biểu dự Đại hội họp ở Luân Đôn tháng 11-1847, khởi thảo ra một cương lĩnh của Đảng có đầy đủ chi tiết, vừa về mặt lý luận, vừa về mặt thực tiễn, để đưa ra công bố”(1). Trong Lời tựa viết cho bản tiếng Anh xuất bản năm 1888, Ăngghen khẳng định lại Tuyên ngôn là Cương lĩnh của Liên đoàn những người cộng sản. “Tại Đại hội của Liên đoàn họp ở Luân Đôn tháng 11-1847, Mác và Ăngghen được giao nhiệm vụ khởi thảo một cương lĩnh lý luận và thực tiễn của Đảng, có đầy đủ chi tiết, để đưa ra công bố. Công việc đó đã được hoàn thành vào tháng giêng 1848; bản thảo viết bằng tiếng Đức đã được gửi tới Luân Đôn để in, vài tuần trước khi Cách mạng 24-2 nổ ra tại Pháp”(2).

Tuyên ngôn là cương lĩnh của Đảng Cộng sản, điều đó đã được chính Mác và Ăngghen khẳng định khi khởi thảo văn kiện lịch sử này. Trong Lời tựa viết cho bản tiếng Đức xuất bản năm 1883 Ăngghen đã nhấn mạnh: “Tư tưởng cơ bản và chủ đạo của “Tuyên ngôn” là: trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra, - cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy; do đó (từ khi chế độ công hữu ruộng đất nguyên thuỷ ta rã) toàn bộ lịch sử là lịch sử các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa những giai cấp bị trị và những giai cấp thống trị, qua các giai đoạn của sự phát triển của họ; những cuộc đấu tranh ấy hiện nay đã đến một giai đoạn mà giai cấp bị bóc lột và bị áp bức (tức là giai cấp vô sản) không còn có thể tự giải phóng khỏi tay giai cấp bóc lột và áp bức mình (tức là giai cấp tư sản) được nữa, nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức và khỏi những cuộc đấu tranh giai cấp, - tư tưởng chủ chốt ấy hoàn toàn là của Mác”(3).

Từ khi xã hội loài người phân chia các giai cấp như Mác và Ăngghen khẳng định là lịch sử đấu tranh giai cấp. Đó là cuộc đấu tranh của các giai cấp đối lập nhau về quyền và lợi ích, địa vị trong xã hội. “Người tự do và người nô lệ, quý tộc và bình dân, chúa đất và nông nô, thợ cả phường hội và thợ bạn, nói tóm lại, những kẻ áp bức và những người bị áp bức luôn luôn đối kháng với nhau, đã tiến hành một cuộc đấu tranh không ngừng, lúc công khai, lúc ngấm ngầm, một cuộc đấu tranh bao giờ cũng kết thúc hoặc bằng một cuộc cải tạo cách mạng toàn bộ xã hội, hoặc bằng sự diệt vong của cả hai giai cấp đấu tranh với nhau”(4).

Ở mỗi thời đại lại có giai cấp tiêu biểu đứng ở trung tâm và diễn ra đấu tranh giai cấp trong những điều kiện mới. Mác và Ăngghen cho rằng: Xã hội tư sản hiện đại, sinh ra từ trong lòng xã hội phong kiến đã bị diệt vong, không xoá bỏ được những đối kháng giai cấp. Nó chỉ đem những giai cấp mới, những điều kiện áp bức mới, những hình thức đấu tranh mới thay thế cho những giai cấp, những điều kiện áp bức, những hình thức đấu tranh cũ mà thôi. Trong thời đại tư bản chủ nghĩa - thời đại của giai cấp tư sản: Xã hội ngày càng chia thành hai phe lớn thù địch với nhau, hai giai cấp lớn hoàn toàn đối lập với nhau: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản(5).

Với sự nghiên cứu sâu sắc tiến trình lịch sử loài người, đặc biệt nghiên cứu sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản, của các cuộc cách mạng tư sản, Mác và Ăngghen đã làm rõ sự ra đời và phát triển của giai cấp tư sản. Từ những nông nô thời trung cổ, đã nảy sinh ra những thị dân các thành thị đầu tiên; từ dân cư thành thị này, nảy sinh ra những phần tử đầu tiên của giai cấp tư sản. Với sự phát triển của đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới rộng lớn, làm cho giai cấp tư sản ngày càng lớn lên, tăng gấp bội những tư bản của họ lên và đẩy lùi các giai cấp do thời trung cổ để lại. Xem thế thì biết bản thân giai cấp tư sản hiện đại cũng là sản phẩm của một quá trình phát triển lâu dài, của một loạt những cuộc cách mạng trong phương thức sản xuất và trao đổi. Về khách quan, Mác và Ăngghen cho rằng: “Giai cấp tư sản đã đóng một vai trò hết sức cách mạng trong lịch sử”(6).

Với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản nắm gần như toàn bộ sở hữu tư liệu sản xuất và của cải vật chất, thực hiện sự bóc lột và áp bức tàn bạo đối với giai cấp vô sản làm thuê. Đương nhiên, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản đã và đang diễn ra quyết liệt. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản bắt đầu ngay từ lúc họ mới ra đời. Chính phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm cho giai cấp vô sản ngày càng phát triển và trưởng thành về ý thức đấu tranh, về lợi ích và con đường đi tới để xoá mọi áp bức, bất công. Thế là giai cấp tư sản đã từng đóng vai trò cách mạng trong lịch sử lại trở thành lực lượng phản động khi họ áp bức bóc lột thậm tệ đối với giai cấp vô sản và nói chung đối với những người lao động, với các dân tộc thuộc địa.

Giai cấp vô sản làm thuê dần dần phát triển lớn mạnh cùng với sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, của đại công nghiệp. Sự lớn mạnh đó không chỉ ở số lượng mà còn ở sức mạnh của tính tổ chức, của sự giác ngộ ý thức giai cấp. Mác và Ăngghen đã nghiên cứu sâu sắc chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân và phong trào công nhân và từ đó xây dựng học thuyết khoa học cách mạng để truyền bá vào giai cấp công nhân và phong trào công nhân dẫn dắt giai cấp đó vào con đường đấu tranh cách mạng chống chủ nghĩa tư bản bất công. Mác và Ăngghe cho rằng: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp còn giai cấp vô sản, lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”(7).

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đánh dấu sự ra đời của học thuyết khoa học, cách mạng - vũ khí lý luận tư tưởng của giai cấp vô sản. Mác và Ăngghen đã phát hiện và khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản là đấu tranh đánh đổ chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội hoàn toàn mới, không còn áp bức, bất công đó là chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Cuộc cách mạng vô sản đã được Mác và Ăngghen nêu ra trong Tuyên ngôn với 10 biện pháp chủ yếu. Mác và Ăngghen cũng dự báo “sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản là tất yếu như nhau”(8).

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản không chỉ giải phóng giai cấp mình mà còn giải phóng nhân dân lao động, giải phóng các dân tộc và toàn thể nhân loại. Không chỉ giai cấp vô sản bị chủ nghĩa tư bản thống trị, bóc lột mà các tầng lớp nhân dân lao động, các dân tộc cũng bị giai cấp tư sản thống trị và nô dịch. Đó là điều Mác và Ăngghen đã nhận thấy rõ. Vì thế, Mác và Ăngghen đã chỉ rõ cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản không tách rời cuộc đấu tranh dân tộc. Đây là một nội dung rất quan trọng và thiết yếu của Tuyên ngôn cần được nghiên cứu và nhận thức sâu sắc. Điều đó cũng đã chi phối tiến trình cách mạng của các dân tộc từ sau Tuyên ngôn, nhất là trong thế ky XX và trong điều kiện hiện nay.

Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen nêu rõ: “Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc”(9), đồng thời nhấn mạnh: “Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”(10). “Hãy xoá bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ”(11).

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã soi sáng con đường đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản. “Trong cuộc cách mạng ấy, nhưng người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ. Họ sẽ giành được cả thế giới”(12). Cuộc cách mạng ấy tập hợp giai cấp vô sản toàn thế giới dưới khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!” Tuyên ngôn còn đề cập và dẫn dắt cuộc đấu tranh dân tộc. Cho đến cuối thế kỷ XIX, nhất là đầu thế kỷ XX chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, mở rộng các cuộc chiến tranh xâm chiếm các dân tộc nhỏ yếu để biến thành thuộc địa của họ. Vấn đề dân tộc và thuộc địa đã được Lênin nghiên cứu sâu sắc, đó cũng là sự phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện của chủ nghĩa đế quốc. Như vậy, trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa cùng với mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản, mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc, thực dân cũng ngày càng sâu sắc và bùng phát thành cuộc đấu tranh, thành phong trào dân tộc ở khắp nơi.

Dưới ánh sáng của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc hướng theo quỹ đạo của cách mạng vô sản đã phát triển ở nhiều nước. Đó là Công xã Pari năm 1871, Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, Cách mạng Trung Quốc, Việt Nam, Cuba và ở nhiều nước khác. Thế kỷ XX đã chứng kiến sự ra đời phát triển và lớn mạnh của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Với sự chống phá của chủ nghĩa đế quốc, với chiến lực “diễn biến hoà bình” và do những sai lầm và cả sự phản bội của một số người lãnh đạo của một số đảng cộng sản mà chế độ xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Nhưng các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó có Trung Quốc, Việt Nam đã và đang kiên định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội theo đường lối cải cách, mở cửa và đổi mới và chứng minh sức sống của chủ nghĩa xã hội, của tư tưởng xã hội chủ nghĩa và con đường cách mạng mà Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã đề ra.

Trên con đường đi tìm con đường giải phóng dân tộc để giành lại độc lập cho đất nước Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm đến với chủ nghĩa Mác-Lênin. Người nói: “Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi đã nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác”(13). Người đã truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam dẫn tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930. Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã đề ra Cương lĩnh, đường lối kết hợp nhuần nhuyễn đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc, lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc dẫn tới những thắng lợi vĩ đại có ý nghĩa lịch sử và thời đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Đó là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 xoá bỏ chế độ phong kiến và thuộc địa giành độc lập và thiết lập nhà nước cách mạng kiểu mới của giai cấp vô sản và nhân dân lao động, mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập dân tộc và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đó là thắng lợi của cuộc kháng chiến oanh liệt chống đế quốc, thực dân giành và bảo vệ độc lập dân tộc. Đó là thắng lợi của công cuộc đổi mới vì chủ nghĩa xã hội, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và chứng minh ngày càng sáng tỏ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Ý tưởng đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam đã hình thành từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX và trở thành đường lối đổi mới mà Đại hội Đảng lần thứ VI (12-1986) đã đề ra. Bắt đầu từ đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cho sát hợp với thực tiễn của Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết tâm khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí, nóng vội và cả sự bảo thủ, trì trệ trong nhận thức và hành động. Đường lối đổi mới là sản phẩm của tư duy lý luận đúng đắn, nhận thức và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan, nhất là những quy luật kinh tế của thời kỳ quá độ; là sản phẩm của quá trình khảo nghiệm, tổng kết thực tiễn. Hai mươi năm đổi mới, Việt Nam đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử và là bước tiến dài trong tiến trình phát triển của cách mạng và của lịch sử dân tộc - một cuộc canh tân lớn trong lịch sử. Quá trình đổi mới cũng là quá trình từng bước phát triển và hoàn thiện nhận thức về chủ nghĩa xã hội.

Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con dường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.

Có thể thấy rõ nhận thức về chủ nghĩa xã hội và về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã góp phần làm sáng tỏ những điều mà Mác và Ăngghen đã dự báo trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua công cuộc đổi mới đã được nhận thức sáng tỏ trên mấy vấn đề lớn.

Một là, nhận thức sáng tỏ hơn về mục tiêu và mô hình của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII của Đảng (6-1991) thông qua đã lần đầu tiên nêu ra mô hình 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thực tiễn của quá trình đổi mới cho phép nhận thức rõ hơn và có thể bổ sung, phát triển mô hình đó. Đương nhiên, mô hình đó chỉ có thể đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ và chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng về căn bản ở Việt Nam. Đại hội X của Đảng (4-2006) đã khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”(14).

Đại hội X của Đảng cũng xác định rõ: “Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản”(15).

Mục tiêu và mô hình chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đang từng bước được cụ thể hoá và thực hiện thông qua hệ thống các chiến lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, kết hợp chặt chẽ tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội vì cuộc sống hạnh phúc, tốt đẹp của nhân dân, của mỗi con người; xây dựng chế độ và hệ thống chính trị mà mục tiêu của nó là thực hiện và ngày càng hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, động viên cao độ sức dân để làm lợi cho dân, cho đất nước; bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, kiên định và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, thể chế chính trị và con đường phát triển riêng của mình, đồng thời tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác phát triển bền vững.

Hai là, sáng tỏ hơn về khả năng và nội dung bỏ qua chủ nghĩa tư bản để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Ở hoàn cảnh lịch sử thế kỷ XIX, Mác dự báo cách mạng vô sản có thể và cần phải đồng thời nổ ra ở các nước tư bản phát triển mới có thể giành thắng lợi. Đầu thế kỷ XX, Lênin cho rằng do sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản, mà cách mạng vô sản có thể nổ ra và giành thắng lợi ở một số nước, thậm chí ở một nước mà ở đó chủ nghĩa tư bản phát triển chưa cao. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã chứng tỏ điều đó. Cách mạng giải phóng của các dân tộc thuộc địa do Đảng Cộng sản lãnh đạo hoàn toàn có thể giành thắng lợi và phát triển lên con đường xã hội chủ nghĩa không phải trải qua chủ nghĩa tư bản. Cách mạng Trung Quốc và Việt Nam đã chứng thực điều đó.

Đối với cách mạng Việt Nam, ngay từ Cương lĩnh năm 1930 Đảng đã khẳng định khả năng bỏ qua chủ nghĩa tư bản để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Điều đó tiếp tục được khẳng định và thực hiện khi miền Bắc được giải phóng (1954) bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội sau đại thắng mùa xuân năm 1975. Trong công cuộc đổi mới từ năm 1986, mặc dù mất đi chỗ dựa do sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, song thắng lợi của công cuộc đổi mới càng khẳng định Việt Nam hoàn toàn có khả năng bỏ qua chủ nghĩa tư bản để tiến lên chủ nghĩa xã hội. “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”(16).

Ba là, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được nhận thức rõ hơn về các chặng đường, bước đi phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Mác là người đã đưa ra khái niệm về sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và ông đặc biệt lưu ý về quá độ chính trị và tương ứng với thời kỳ quá độ là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản. Từ thực tiễn của nước Nga đi lên chủ nghĩa xã hội, Lênin chú trọng phát hiện những đặc trưng của thời kỳ quá độ, nhất là quá độ về kinh tế. Theo Mác và Lênin, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là quá trình cải biến cách mạng lâu dài và không thể không trải qua nhiều chặng đường, giai đoạn và bước đi khác nhau. Lênin cho rằng: “Trong trường hợp tốt nhất thì bước quá độ ấy cũng chiếm mất nhiều năm. Suốt cả thời kỳ đó, trong chính sách của chúng ta, lại chia ra thành nhiều bước quá độ nhỏ hơn nữa. Và tất cả cái khó khăn của nhiệm vụ chúng ta phải làm, tất cả cái khó khăn của chính sách và tất cả sự khéo léo của chính sách là ở chỗ biết tính đến những nhiệm vụ đặc thù của từng bước quá độ đó”(17).

Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ sự cần thiết phải chuẩn bị những điều kiện cho bước phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội. “Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình”(18). Sau ngày miền Bắc được giải phóng (1954), Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương đưa miền Bắc tiến dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội.

Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, năm 1970 Đảng ta đã xác định miền Bắc đang ở bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ mà nhiệm vụ cơ bản là tích luỹ vốn cho công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và cải thiện đời sống nhân dân. Năm 1982, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã đề ra những nhiệm vụ của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ mà trọng tâm là chuẩn bị những tiền đề cần thiết về chính trị, kinh tế, xã hội, khoa học-kỹ thuật để đẩy nhanh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Cùng với xác định đường lối đổi mới, Đại hội VI của Đảng (12-1986) còn đề ra những mục tiêu cụ thể cho những năm tháng còn lại của chặng đường đầu tiên.

Mười năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới, chẳng những Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội năm 1996, mà còn hoàn thành những nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu tiên, cho phép chuyển sang chặng đường tiếp theo với nhiệm vụ trọng tâm là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chặng đường thứ hai này dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2020 khi nước ta trở thành nước công nghiệp hoá theo hướng hiện đại.

Lênin cho rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là rất lâu dài, quá độ đó có bao nhiêu giai đoạn sẽ phải trải qua chúng ta không biết và cũng không thể biết được. Đảng Cộng sản Việt Nam, từ thực tiễn của công cuộc đổi mới cũng đã nhận thức rõ rằng: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ”(19).

Cùng với nhận thức sáng tỏ hơn về các chặng đường, bước đi, công cuộc đổi mới của Việt Nam đã có được những hình thức và cách làm phù hợp để đạt được mục tiêu đề ra. Đổi mới diễn ra toàn diện, đồng bộ với những cách thức và giải pháp thích hợp. Đã chú trọng phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển khoa học-công nghệ, coi chiến lược giáo dục, đào tạo và chiến lược khoa học-công nghệ có vị trí hàng đầu. Đã sử dụng đúng đắn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chú trọng những điều kiện cần thiết bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn liền với phát triển kinh tế tri thức. Chú trọng thực hiện có kết quả các chính sách xã hội, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, phát huy nhân tố con người. Đã kết thừa và phát triển kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nhiều nước, từ kinh nghiệm thành công và cả những bài học thất bại để điều chỉnh bước đi và có giải pháp thích hợp. Tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, học hỏi, nâng cao trình độ tổ chức, lãnh đạo và quản lý đất nước và xã hội.

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã chỉ ra quy luật vận động khách quan của lịch sử là loài người sẽ đi tới chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Cương lĩnh năm 1930 của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là làm cho đất nước hoàn toàn độc lập và tiến tới xã hội cộng sản. Mấy chục năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là từ khi thực hiện công cuộc đổi mới con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng được xác định rõ hơn, mục tiêu, mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn. Đó là những sự kiện phản ánh tiến trình lịch sử mà sự kiện trước định hướng và tạo tiền đề cho sự kiện tiếp theo và các sự kiện tiếp theo minh chứng cho tính đúng đắn và giá trị khoa học của sự kiện trước.

Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen nêu bật vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, của những người cộng sản và sự cần thiết phải xây dựng Đảng Cộng sản thật sự cách mạng. Nắm vững tư tưởng của Tuyên ngôn và từ thực tiễn Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng, cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng được trang bị lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong Tuyên ngôn, Mác và Ăngghen đã xác định vô sản phải tự mình trở thành dân tộc, trở thành giai cấp dân tộc, nghĩa là phải lãnh đạo, trở thành lực lượng lãnh đạo của cả phong trào cách mạng của nhân dân lao động và của cả dân tộc.

Quy luật ra đời và xây dựng, phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Quy luật đó đã chứng minh tư tưởng đúng đắn của Tuyên ngôn. Từ thực tiễn của cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn đề cao vấn đề dân tộc, giải quyết đúng đắn mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc. Hiện thực cách mạng Việt Nam đã chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam không những là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân mà còn của cả nhân dân lao động và của toàn dân tộc. Đại hội X của Đảng tổng kết và khẳng định bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng và nêu rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”(20).

Sự nghịêp cách mạng của giai cấp vô sản, của Đảng Cộng sản mà Mác, Ăngghen đề ra trong Tuyên ngôn là triệt để, toàn diện nhằm cải biến xã hội cũ xây dựng xã hội mới tốt đẹp cho nhân dân cho mỗi con người. Vì vậy, sự nghiệp đấu tranh đó không thể và không bao giờ là cô độc, biệt phái, trái lại là sự nghiệp của quảng đại quần chúng nhân dân, của các dân tộc và không ngừng sáng tạo dưới sự lãnh đạo, tổ chức của Đảng Cộng sản mang bản chất cách mạng và khoa học của giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định, Đảng là của giai cấp công nhân và của cả nhân dân lao động và của cả dân tộc không chỉ phản ánh thực tế xây dựng và hoạt động của Đảng suốt từ năm 1930 đến nay mà còn ngày càng củng cố quan hệ mật thiết giữa Đảng với giai cấp, nhân dân và dân tộc. Khẳng định điều đó càng tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, toàn dân tộc dưới ngọn cờ, lý tưởng và mục tiêu do Đảng đề ra.

Thắng lợi của toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam kể từ năm 1930, nhất là thắng lợi của công cuộc đổi mới đã khẳng định tính đúng đắn của con đường mục tiêu của cách mạng Việt Nam gắn liền với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi đó cùng với thắng lợi của cách mạng, của chủ nghĩa xã hội ở các nước khác đã chứng minh ý nghĩa lịch sử, giá trị cách mạng và khoa học của tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do Mác và Ăngghen soạn thảo. Công cuộc đổi mới của Việt Nam tiếp tục phát triển, nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội tiếp tục được thực hiện trong thế kỷ XXI, ngày càng khẳng định và hiện thực hoá những tư tưởng cách mạng, khoa học của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản./.

PGS, TS. NGUYỄN TRỌNG PHÚC

_______________________________

(1), (2), (3) - C.Mác và Ph.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr.503, 511, 509-510.

(4), (5), (6), (7), (8), (9), (10), (11), (12) - C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, t.4, tr.596-597, 597, 599, 610, 613, 611, 623-624, 624, 646.

(13) - Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, t.4, tr.272.

(14) - Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tr.68.

(15) - Đảng Cộng sản Việt Nam: Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, H, 2006, tr.4.

(16) - Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001, tr.84.

(17) - V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát xcơva, 1974, t.40, tr.119-120.

(18) - Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.272.

(19) - Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Sđd, tr.85.

(20) - Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Sđd, tr.130

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất