(TCTG)- Đại hội X của Đảng tiếp tục nhấn mạnh tầm quan trọng của phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội. Yêu cầu mới đặt ra, như đã được nêu rõ trong văn kiện Đại hội, là phải “tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”.
Quan hệ giữa phát triển và văn hoá - nhìn trên bình diện phổ quát
Văn hoá là sản phẩm đặc trưng của xã hội loài người. Dưới hình thức những cái đã có và những cái đang hiện hữu, văn hoá là tất cả những gì thuộc về con người. Tuy nhiên, cốt lõi của một nền văn hoá là hệ giá trị tinh thần của nó. Và những giá trị văn hoá đích thực của từng cộng đồng, từng dân tộc và cả nhân loại nói chung đều thể hiện rõ khuynh hướng vươn tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp (tức chân, thiện, mỹ), đồng thời tích cực chống lại những cái sai, cái ác, cái xấu.
Văn hoá bao trùm tất cả các phương diện của hoạt động xã hội. Nó quan hệ hết sức mật thiết với phát triển, đến mức có sự tương đồng về nghĩa - hay nói cách khác, “phát triển” và “văn hoá” có thể chuyển hoán lẫn nhau. Lâu nay, không ít người trong giới nghiên cứu và chính khách ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới vẫn bám giữ lối tư duy lệch lạc, khi tuyệt đối hoá vai trò của kinh tế hay của công nghệ đối với sự phát triển. Nhưng thực ra, phát triển là một quá trình văn hoá và chính trị trước khi là một quá trình kinh tế và công nghệ. Môi trường văn hoá ở những phạm vi từ nhỏ đến lớn đều có tầm quan trọng đối với sự phát triển của mỗi người, của mỗi cộng đồng và của cả loài người.
Văn hoá gắn kết chặt chẽ với cuộc sống xã hội, thường xuyên vận động, phát triển cùng với cuộc sống xã hội. Vì thế, các giá trị văn hoá đã có - dù cao đẹp, thiêng liêng đến mấy - thì cũng không thể đáp ứng được đầy đủ nhu cầu không ngừng đổi mới của cuộc sống. Như vậy, mọi giá trị văn hoá đều có tính lịch sử; và để thúc đẩy xã hội phát triển thì cái cốt lõi nhất, phải chăng, là phải không ngừng đổi mới, phát triển văn hoá. Và nếu nhìn dưới góc độ văn hoá, thì phát triển là một quá trình đấu tranh gian khổ và bền bỉ để đẩy lùi, loại bỏ cái sai, các ác, cái xấu; làm cho cái đúng, cái tốt, cái đẹp không ngừng được bổ sung, hoàn thiện và có vai trò định hướng, dẫn dắt tất cả các phương diện của hoạt động xã hội. Một khi hàm lượng văn hoá trong mỗi con người, mỗi cộng đồng càng được gia tăng thì sự phát triển không chỉ của cá nhân, của cộng đồng mà còn của cả quốc gia dân tộc và loài người càng trở nên lành mạnh và bền vững.
Văn hoá và phát triển ở Việt Nam trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua – từ nhận thức đến kết quả thực tế
Về nhận thức
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X và các hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá X là quá trình hơn 20 năm đổi mới tư duy lý luận của Đảng về văn hoá và phát triển. Trong quá trình đó, bám sát thực tiễn và tổng kết thực tiễn đổi mới của đất nước, Đảng ta đã kế thừa, bổ sung, hoàn thiện những quan điểm đã được trình bày ở Đề cương văn hoá Việt Nam (văn kiện đầu tiên có tính chất cương lĩnh của Đảng ta về văn hoá, được công bố từ năm 1943), ở các văn kiện qua các nhiệm kỳ đại hội trước đổi mới; từ đó, đã xây dựng được những quan niệm mới, toàn diện và bao quát hơn về văn hoá, và đó là một bước tiến rất quan trọng trong tư duy của Đảng ta về sự phát triển.
Vị trí, vai trò của văn hoá trong đời sống xã hội và đối với sự phát triển đã được Đảng ta nhận thức càng ngày càng rõ hơn, sâu sắc hơn.
Văn kiện Đại hội VI nhấn mạnh: “Không có hình thái tư tưởng nào có thể thay thế được văn học và nghệ thuật trong việc xây dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con người”.
Đến Đại hội VII, Đại hội VIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội. Nghị quyết Trung ương năm khoá VIII, tư duy của Đảng ta về văn hoá và vai trò của nó đối với công cuộc phát triển đất nước lại được nâng lên một bước. Nghị quyết đã vạch ra phương hướng xây dựng và phát triển văn hoá, 5 quan điểm chỉ đạo và 10 nhiệm vụ cụ thể cùng với những nhiệm vụ cấp bách đến năm 2000. Ở Nghị quyết này, Đảng ta đã nhìn nhận toàn diện hơn về các giá trị văn hoá dân tộc, và đặc biệt, đã nhấn mạnh, xác định rõ mối quan hệ giữa phát triển văn hoá với phát triển kinh tế - xã hội. Có thể nói, so với các nghị quyết trước đó về văn hoá, điểm mới nổi bật của NQTW 5 (khoá VIII) thể hiện ở chỗ đã thấy rõ sự cần thiết phải xây dựng những chính sách kinh tế trong văn hoá và những chính sách văn hoá trong kinh tế; khẳng định văn hoá là nhân tố liên quan trực tiếp đến phát triển, “là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển.
Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội X của Đảng tiếp tục nhấn mạnh tầm quan trọng của phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội. Yêu cầu mới đặt ra, như đã được nêu rõ trong văn kiện Đại hội, là phải “tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”. Cùng với xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, phải chú trọng bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Quan tâm đến thế hệ trẻ, văn kiện Đại hội nhấn mạnh yêu cầu phải bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam. Tư duy, tầm nhìn của Đảng ta về văn hoá cho đến Đại hội X tiếp tục được “mở” hơn, nhất quán với quyết tâm đổi mới, phát triển đất nước theo con đường XHCN.
Về thực trạng văn hoá nước ta qua hơn 20 năm đổi mới
Những thành tựu chủ yếu về văn hoá trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua:
1. Nhiều nhân tố mới, giá trị mới về văn hoá đã xuất hiện, được công nhận, bổ sung cho những giá trị truyền thống; văn hoá đã tham gia có hiệu quả vào phát triển con người Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Trước những tác động rất phức tạp từ sự chao đảo của các khuynh hướng tư tưởng và chính trị trên thế giới, ở Việt Nam, chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ tiếp tục được khẳng định là nền tảng tư tưởng, mà còn được phát triển với một số kết quả nghiên cứu mới về những giá trị phương pháp luận, làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối đổi mới và phát triển đất nước. Nhiều giá trị văn hoá, đạo đức được cộng đồng xã hội đề cao, các phong trào “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn”, “lá lành đùm lá rách”… diễn ra sôi động và ngày càng có tác dụng thiết thực. Tính năng động, tính tích cực của công dân, năng lực của cá nhân được khuyến khích phát triển. Con người Việt Nam đã trở nên năng động hơn, có khả năng sáng tạo rõ hơn trong môi trường kinh tế thị trường và hội nhập với thế giới; nhu cầu tinh thần, vật chất, sinh hoạt đã thực sự thay đổi; những giá trị nhân văn theo chuẩn mực mới, lành mạnh hơn được thừa nhận, từng bước có tác dụng định hướng cho hoạt động của các cá thể và cộng đồng xã hội…
2. Cuộc vận động xây dựng môi trường văn hoá tiến bộ, lành mạnh đã và đang trở thành phong trào xã hội rộng lớn, thu hút sự tham gia của các tổ chức trong hệ thống chính trị, các lực lượng xã hội, và của đông đảo các tầng lớp nhân dân.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” đã được triển khai rộng khắp, bắt đầu từ mỗi gia đình, làng bản, đơn vị, cơ quan, trường học… đã có tác dụng động viên ý thức tự giác của mỗi người, thúc đẩy quá trình nhập thân văn hoá của mỗi người. Cuộc vận động xây dựng gia đình văn hoá đạt được những kết quả nhất định cả về chất lượng và số lượng. Nếp sống văn minh trong đời sống cá thể và trong cưới xin, ma chay, lễ hội được chú trọng. Các lễ hội cổ truyền được khôi phục, phát triển, có tác dụng tích cực trong việc kết nối quá khứ với hiện tại…
3. Văn học, nghệ thuật đã có những bước phát triển mới. Sáng tác và hoạt động phổ biến văn hoá, nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng. Số lượng các tác phẩm văn học, nghệ thuật tăng lên đáng kể, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thẩm mỹ ngày càng tăng của nhân dân.
Từ năm 1986 đến nay, lĩnh vực văn học, nghệ thuật Việt Nam đã có những biến đổi sâu sắc, mạnh mẽ. Nhiều nhân tố, khuynh hướng tìm tòi mới xuất hiện. Đời sống xã hội và cuộc sống của con người với các chiều cạnh đa dạng đã được phản ánh, phát hiện trong nhiều loại hình văn học, nghệ thuật. Các tác phẩm văn hoá về đề tài cách mạng, kháng chiến tiếp tục được duy trì, có chiều hướng tăng lên, có những phát hiện mới, góp phần nâng cao giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đề tài lịch sử dân tộc tiếp tục được tái hiện, đặc biệt là ở nhiều loại hình nghệ thuật, trong đó có một số tác phẩm được đầu tư khá công phu. Hoạt động nghiên cứu, sưu tầm, xuất bản các công trình về sử thi, ca dao, dân ca và nhạc cổ truyền được đẩy mạnh. Sân khấu tiếp tục có những tìm tòi, tìm được những hướng đi mới kết hợp giữa truyền thống với hiện đại. Hàng năm, số lượng và thể loại điện ảnh được đầu tư và ra mắt công chúng tăng khá đều. Hoạt động sáng tác mỹ thuật có nhiều tìm tòi về cách thức biểu đạt ngôn ngữ riêng, về phong cách và đã tổ chức được nhiều cuộc triển lãm, mở rộng giao lưu văn hoá trong nước và với nhiều nước trên thế giới. Sinh hoạt âm nhạc và thị trường các sản phẩm âm nhạc sôi động, thu hút sự quan tâm của lớp trẻ. Các ngành nghệ thuật múa, nhiếp ảnh, kiến trúc, văn nghệ dân tộc thiểu số có nhiều tiến bộ. Các hội văn học nghệ thuật có sự gia tăng về số lượng và đã tổ chức được nhiều hình thức hoạt động mới, có tác dụng tích cực đối với đời sống xã hội…
4. Trong quá trình thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về đổi mới và phát triển văn hoá, đại bộ phận trong nhân dân ta ngày càng ý thức sâu sắc hơn về một nền văn hoá thống nhất trong đa dạng – một nhân tố cơ bản và sống còn của văn hoá Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Hơn 20 năm qua, văn hoá của 54 dân tộc có điều kiện phát triển thuận lợi hơn hẳn so với thời kỳ trước đổi mới trong một quốc gia thống nhất. Văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số được coi trọng. Nhiều giá trị văn hoá được phát huy, được đặt trong các kế hoạch bảo tồn, do vậy đã góp phần quan trọng vào việc củng cố, nâng cao tinh thần đoàn kết và bình đẳng giữa các dân tộc. Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá (bắt đầu được thực hiện từ năm 1997) đã dành nhiều dự án cho việc duy tu, bảo tồn, nâng cấp các di sản văn hoá của các dân tộc thiểu số. Các tài sản văn hoá vật thể và phi vật thể của đất nước, ở nhiều vùng, miền được tìm tòi, có những phát hiện mới mang lại những giá trị bổ ích về tinh thần và phục vụ thiết thực cho phát triển ngành du lịch. Mức hưởng thụ và đời sống văn hoá của nhân dân ta nói chung, và của đồng bào các dân tộc được cải thiện, nâng cao. Hoạt động giao lưu văn hoá - nghệ thuật giữa các dân tộc được tổ chức với các hình thức ngày càng đa dạng, sinh động ở những quy mô khác nhau, đã có ảnh hưởng tích cực đến tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, góp phần thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển…
5. Bản sắc văn hoá dân tộc được chú trọng gìn giữ; đồng thời các hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hoá được mở rộng, phát triển.
Kho tàng văn hoá nghệ thuật truyền thống được bảo tồn. Văn học chữ viết của các thế hệ trước được sưu tầm, biên tập, chú giải, nghiên cứu chu đáo, cẩn thận. Nhiều di sản của Việt Nam đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới (Cố đô Huế, Khu phố cổ Hội An, Vịnh Hạ Long, Khu di tích Mỹ Sơn, Động Phong Nha-Kẻ Bàng…) và một số di sản được công nhận là kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại (Nhã nhạc Cung đình Huế…). Hàng trăm di tích cách mạng và kháng chiến, nhiều di tích kiến trúc – nghệ thuật đã được Nhà nước cấp kinh phí để bảo tồn, trùng tu, nâng cấp. Việc xã hội hoá hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị các di tích văn hoá đã được mở rộng, có nhiều kết quả thiết thực. Nhiều di tích khảo cổ đã được tổ chức khai quật, có những phát hiện mới có giá trị lớn về lịch sử – văn hoá (điển hình như Hoàng Thành Thăng Long, di tích Lung Leng -KonTum…).
Trước 1986, Việt Nam mới chỉ có quan hệ hợp tác, trao đổi văn hoá với khoảng 20 nước trên thế giới (chủ yếu là những nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu, Trung Quốc, Cuba…). Trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua, quan hệ trong lĩnh vực này đã được mở rộng đáng kể, với khoảng 50-60 nước ở khắp các châu lục, và đã có khoảng 50 hiệp định, chương trình hợp tác về văn hoá giữa Việt Nam với các nước được ký kết. Việt Nam cũng tham gia hầu hết các tổ chức quốc tế quan trọng về văn hoá như UNESCO, ACCU, ICOM, FIAF…; đã và đang trở thành một địa chỉ giao lưu văn hoá có uy tín ở khu vực và quốc tế.
6. Yếu tố văn hoá trong các tôn giáo, tín ngưỡng đã được chú trọng kế thừa, phát huy, góp phần nâng cao ý tưởng công bằng, bác ái, hướng thiện, ổn định chính trị – xã hội.
Nhiều hoạt động văn hoá của các tôn giáo đã được hoà đồng với văn hoá chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tạo nên sự đoàn kết trong các địa bàn dân cư; có tác dụng động viên nhân dân cùng nhau xây dựng kinh tế, xoá đói, giảm nghèo, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần theo phương châm “gắn bó dân tộc với đạo pháp”, “sống tốt đời, đẹp đạo”, “kính Chúa yêu nước”, “sống phúc âm trong lòng dân tộc”, “đạo pháp, dân tộc và CNXH”…
7. Cơ sở vật chất cho hoạt động văn hoá thông tin được đầu tư và phát triển.
Hệ thống nhà văn hoá được quan tâm xây dựng từ Trung ương đến các thôn, xóm, làng, bản. Hệ thống thư viện được đầu tư nâng cấp và xây dựng mới ở hầu khắp các tỉnh, thành phố, ở nhiều huyện, thị xã. Các thư viện lớn đều đã áp dụng công nghệ thông tin để phục vụ bạn đọc. Hệ thống bảo tàng cũng phát triển khá mạnh. Hệ thống công nghiệp điện ảnh được mở rộng, với khoảng trên 30 hãng phim, hàng chục rạp chiếu bóng, trong đó đáng kể là Trung tâm chiếu phim quốc gia (ở Hà Nội) và các tỉnh, thành phố khác, và nhìn chung đều được đầu tư hiện đại hoá. Hệ thống nhà hát cũng được mở rộng, nâng cấp. Hệ thống công viên văn hoá, khu du lịch văn hoá - sinh thái và các tụ điểm vui chơi, giải trí cũng được mở mang, phát triển. Đặc biệt, đã có hàng triệu hiện vật gốc là các di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia được sưu tầm, bảo quản, trưng bày và giới thiệu…
Những thành tựu và ảnh hưởng tích cực của phát triển văn hoá đến đời sống kinh tế – xã hội của đất nước trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua là không thể phủ nhận; tuy nhiên, bên cạnh đó cũng còn những mặt hạn chế rất đáng lo ngại, đã và đang gây ra những tác động rất bất lợi đến uy tín của Đảng, của Nhà nước và triển vọng phát triển của đất nước.
Một là, chưa tạo ra được những thiết chế xã hội, cơ chế chính sách và động lực thực sự bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ giữa con người với con người, giữa các cộng đồng xã hội, giữa các chủ thể… vì sự phát triển.
Hai là, sự xuống cấp về văn hoá - đạo đức đã và đang diễn ra khá phổ biến ở một bộ phận không nhỏ trong cộng đồng xã hội, trở thành một vấn nạn xã hội rất nhức nhối, biểu hiện ở sự suy thoái về tư tưởng chính trị; sự gia tăng của lối sống thực dụng; ở các tệ nạn tham nhũng, ma tuý, mại dâm, cờ bạc, ăn chơi sa đọa…
Ba là, chất lượng của các tác phẩm văn hoá nghệ thuật, nhìn chung, chưa đáp ứng được nhu cầu và trình độ ngày càng cao của nhân dân.
Bốn là, không ít cán bộ lãnh đạo, quản lý vẫn không nhận thức đầy đủ về vai trò của văn hoá đối với phát triển, trong suy nghĩ, chỉ đạo và điều hành thường nghiêng về lợi ích kinh tế trước mắt, xem nhẹ văn hoá. Nhìn chung, đầu tư cho phát triển văn hoá còn thấp; lúng túng trong việc tổ chức thực hiện xã hội hoá các hoạt động văn hoá, và nhất là trong việc tổ chức hoạt động của các ngành, các loại hình văn hoá sao cho phù hợp với cơ chế thị trường.
Năm là, tình trạng nghèo nàn về đời sống văn hoá - tinh thần ở nhiều vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số chưa được khắc phục có hiệu quả. Ngay trong các khu công nghiệp tập trung, đời sống văn hoá của đông đảo công nhân và người lao động cũng chưa được quan tâm đúng mức…
Sáu là, văn hoá phẩm ngoại lai, tiêu cực đã và đang thâm nhập mạnh vào nước ta, nhưng chưa có biện pháp ngăn chặn hữu hiệu…
Một số kiến nghị
1. Cần tổng kết, đánh giá thật sự sâu sắc, nghiêm túc tình hình thực tế của đất nước sau 25 năm đổi mới và sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991; trên cơ sở đó sớm xây dựng những cơ chế, thiết chế mới bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội, bảo đảm sự phát triển hài hoà, đồng bộ ba lĩnh vực trên. Đây chính là điều kiện quyết định đối với sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước.
2. Cần làm rõ hơn nội dung của quan điểm “Phát triển văn hoá trở thành nền tảng tinh thần của xã hội”. Theo đó, nên chăng phải chú ý nhiều hơn đến các chức năng và vai trò của văn hoá đối với sự phát triển lâu dài, bền vững của đất nước. Trong các chức năng, phải đặc biệt chú trọng đến chức năng định hình các giá trị, chuẩn mực trong đời sống xã hội. Đồng thời phải có cơ chế thiết thực, bảo đảm để các giá trị, chuẩn mực đó được truyền bá, lưu giữ, chắt lọc và không ngừng phát triển trở thành hệ thống các giá trị vừa có bản sắc dân tộc, vừa phù hợp với các chuẩn mực chung của nhân loại hiện đại. Vai trò nền tảng tinh thần của xã hội của văn hoá trước hết phải được hiện thực hoá trong xây dựng con người cả về trí tuệ, tâm hồn, năng lực, sự thành thạo, tính chuyên nghiệp, tài năng, đạo đức, nhân cách, lối sống của cá nhân và cộng đồng.
Trong thời kỳ mới, đề nghị phải có những cơ chế mới bảo đảm để văn hoá gắn kết chặt chẽ, đồng bộ hơn với phát triển kinh tế-xã hội; làm cho văn hoá thật sự thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vào từng con người, từng gia đình, đơn vị, khu dân cư, những nơi sinh hoạt cộng đồng. Phải đặc biệt chú trọng nâng cao tố chất, chất lượng văn hoá (theo nghĩa rộng) cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành.
3. Cần tập trung nhân lực, vật lực, tài lực theo các chương trình, kế hoạch thiết thực để thật sự nâng cao chất lượng đời sống văn hoá cơ sở, những sản phẩm văn hoá đỉnh cao và những công trình văn hoá tiêu biểu.
4. Bảo đảm tự do, dân chủ cho mọi hoạt động sáng tạo văn học, nghệ thuật, khoa học và công nghệ. Ban hành những chính sách mới bảo đảm thật sự coi trọng, trọng dụng các tài năng văn hoá, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của văn nghệ sĩ, cán bộ khoa học – công nghệ. Tạo những điều kiện mới thuận lợi hơn nữa để hoạt động lý luận – phê bình văn học, nghệ thuật thật sự nâng cao được chất lượng và hiệu quả. Có quy định, lộ trình rõ ràng đối với việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và cơ cấu tổ chức của các hội văn học, nghệ thuật từ Trung ương đến các tỉnh, thành phố. Ban hành những cơ chế, chính sách, chế tài mới bảo đảm tính ổn định trong quản lý văn hoá, đáp ứng thiết thực yêu cầu phát triển văn hoá trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển sâu rộng hội nhập quốc tế.
5. Nên có một chiến lược phát triển văn hoá thật sự thiết thực, phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới./.
TS. Đinh Quang Ty
Vụ trưởng, Thư ký khoa học chuyên trách Hội đồng Lý luận Trung ương