Thứ Bảy, 23/11/2024
Hỏi - Đáp
Thứ Tư, 17/9/2008 14:52'(GMT+7)

Hỏi - Đáp về các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (Phần 1,2,3)

Phần 1

NGHỊ QUYẾT VỀ TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC THANH NIÊN THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

Câu hỏi 1: Vì sao Hội nghị Trung ương 7, khóa X lại bàn và ra Nghị quyết Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa?

Trả lời:

Hội nghị Trung ương 7, khoá X bàn và ra nghị quyết về công tác thanh niên xuất phát từ yêu cầu sau:

Một là, tầm quan trọng của thanh niên đối với sự phát triển của đất nước, dân tộc.

- Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan trọng quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc. Thanh niên luôn là lực lượng chủ yếu trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm những công việc đòi hỏi hy sinh, gian khổ, sức khỏe và sáng tạo.

- Thanh niên là độ tuổi sung sức nhất về thể chất và phát triển trí tuệ, luôn luôn năng động, sáng tạo, muốn tự khẳng định mình.

- Tuy nhiên, do còn trẻ, thiếu kinh nghiệm nên thanh niên cần được giúp đỡ, chăm lo của các thế hệ đi trước và toàn xã hội.

Hai là, vai trò, vị trí của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo.

- Đảng đã xác định thanh niên là lực lượng xung kích cách mạng, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy của Đảng; công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc.

- Đảng đã đề ra nhiều chủ trương giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, tổ chức thanh niên thành lực lượng hùng hậu, trung thành, kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Nhờ đó, qua mỗi thời kỳ các thế hệ thanh niên đều hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử của mình.

Ba là, yêu cầu của giai đoạn phát triển mới.

- Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và sự biến đổi nhanh chóng của tình hình thanh niên, đòi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên.

- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với thanh niên nhằm chăm lo, bồi dưỡng và phát huy cao nhất vai trò, sức mạnh của thanh niên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Câu hỏi 2: Hội nghị Trung ương 7, khóa X đã đánh giá như thế nào về tình hình thanh niên và công tác thanh niên thời gian qua ?

Trả lời:

Nghị quyết Trung ương 7 đã đánh giá: "Sau hơn 20 năm đổi mới và phát triển đất nước, nhất là sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII), tình hình thanh niên có những chuyển biến mạnh mẽ, đan xen cả những yếu tố tích cực và tiêu cực, trong đó yếu tố tích cực giữ vai trò chủ đạo"[1]. Biểu hiện cụ thể của đánh giá trên là:

Về ưu điểm:

- Chúng ta đã xây dựng được thế hệ thanh niên thời kỳ mới có đạo đức, nhân cách, tri thức, sức khỏe, tư duy năng động và hành động sáng tạo; tiếp nối truyền thống hào hùng của Đảng và dân tộc.

- Thanh niên nước ta không ngại khó khăn, gian khổ, tình nguyện vì cộng đồng; có trách nhiệm với gia đình, xã hội; có ý chí vươn lên trong học tập, lao động, lập thân, lập nghiệp, làm giàu chính đáng, quyết tâm đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu.

- Dù còn nhiều tâm trạng khác nhau, song đa số thanh niên luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và phát triển đất nước.

- Các cấp ủy đảng đã lãnh đạo hệ thống chính trị, toàn xã hội thực hiện tốt hơn công tác thanh niên và chăm lo xây dựng Đoàn.

- Nhà nước đã ban hành Luật Thanh niên, Chiến lược phát triển thanh niên và nhiều chính sách về công tác thanh niên, tạo điều kiện, cơ hội cho thanh niên rèn luyện, cống hiến, trưởng thành.

- Công tác đoàn và phong trào thanh niên từng bước phát triển, mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên được mở rộng; số thanh niên trở thành đoàn viên, đảng viên ngày càng tăng.

- Vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, gia đình, nhà trường và xã hội đối với thanh niên, công tác thanh niên đã có nhiều chuyển biến tích cực.

Về hạn chế, khuyết điểm:

- Vẫn còn một bộ phận thanh niên sống thiếu lý tưởng, giảm sút niềm tin, ít quan tâm đến tình hình đất nước, thiếu ý thức chấp hành pháp luật, sống thực dụng, xa rời truyền thống văn hóa dân tộc.

- Học vấn của một bộ phận thanh niên, nhất là thanh niên nông thôn, thanh niên dân tộc thiểu số còn thấp; nhiều thanh niên thiếu kiến thức và kỹ năng trong hội nhập quốc tế.

- Tính độc lập, chủ động, sáng tạo, năng lực thực hành sau đào tạo của thanh niên còn yếu, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

- Tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội trong thanh niên đang gia tăng, diễn biến ngày càng phức tạp. Tỉ lệ thanh niên nhiễm HIV/AIDS còn cao.

- Một số cấp ủy đảng chưa quan tâm đúng mức lãnh đạo công tác thanh niên; việc đôn đốc, kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng về công tác thanh niên không thường xuyên, kịp thời.

- Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ trẻ chưa thực sự được coi trọng, chưa làm tốt công tác phát triển Đảng trong thanh niên; thiếu những chính sách nhất quán, đồng bộ, lâu dài đối với thanh niên.

- Việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam chưa theo kịp sự phát triển của tình hình thanh niên.

- Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhiều địa phương chưa phối hợp chặt chẽ, chưa tạo được sức mạnh tổng hợp trong công tác thanh niên. Sự kết hợp giữa gia đình – nhà trường – xã hội trong giáo dục thanh niên còn hạn chế.

Câu hỏi 3: Nguyên nhân những hạn chế, yếu kém của tình hình thanh niên và công tác thanh niên thời gian qua ?

Trả lời:

Nghị quyết chỉ rõ, những hạn chế, yếu kém của tình hình thanh niên và công tác thanh niên thời gian qua có nhiều nguyên nhân, song chủ yếu là do:

- Nhận thức của một bộ phận không ít cấp ủy đảng, cán bộ, đảng viên về thanh niên và công tác thanh niên chưa đầy đủ; một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất không là tấm gương để thanh niên học tập và noi theo. Một bộ phận gia đình ít quan tâm, thiếu giáo dục và nêu gương đối với con cháu.

- Quản lý nhà nước về công tác thanh niên còn nhiều bất cập. Bộ máy quản lý nhà nước về công tác thanh niên và cơ chế phối hợp liên ngành trong công tác thanh niên chưa rõ ràng. Chưa gắn kết mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh với mục tiêu phát triển thanh niên.

- Công tác giáo dục – đào tạo, dạy nghề, giải quyết việc làm, phòng, chống tệ nạn xã hội, hoạt động văn hóa, thể thao, báo chí, xuất bản có nhiều khuyết điểm, yếu kém nhưng chậm được khắc phục đã ảnh hưởng không nhỏ đến các thế hệ thanh niên.

- Công tác giáo dục, ngăn ngừa và đấu tranh với những tác động, lôi kéo thanh niên của các thế lực thù địch, sự truyền bá lối sống nước ngoài không phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc, còn nhiều yếu kém, thậm chí bị buông lỏng.

- Điều kiện, phương tiện hoạt động của Đoàn, Hội, chính sách cho cán bộ đoàn, nhất là cán bộ đoàn cơ sở còn bất cập. Năng lực, trình độ của không ít cán bộ đoàn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế; khả năng tập hợp, tổ chức phong trào thanh niên; tham mưu cho Đảng, chính quyền, phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể trong công tác thanh niên còn hạn chế.

Câu hỏi 4: Nội dung các quan điểm chỉ đạo công tác thanh niên trong thời gian tới?

Trả lời:

Nghị quyết đã xác định 5 quan điểm chỉ đạo về công tác thanh niên, cụ thể là:

Thứ nhất, thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Chăm lo, phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển vững bền của đất nước.

Thứ hai, chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục thanh niên thành lớp người “vừa hồng, vừa chuyên” theo tư tưởng Hồ Chí Minh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, gia đình, nhà trường và xã hội có vai trò quan trọng.

Thứ ba, Đảng lãnh đạo công tác thanh niên và trực tiếp lãnh đạo Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Xây dựng Đoàn vững mạnh là nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, là xây dựng Đảng trước một bước. Đảng đề ra đường lối, chủ trương định hướng cho thanh niên hành động; xác định các chuẩn mực cho thanh niên phấn đấu; xây dựng các tấm gương điển hình tiêu biểu cho thanh niên học tập và noi theo.

Thứ tư, Nhà nước quản lý thanh niên và công tác thanh niên; thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về thanh niên và công tác thanh niên thành pháp luật, chính sách, chiến lược, chương trình hành động và cụ thể hóa trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh hằng năm của các cấp, các ngành.

Thứ năm, sự nỗ lực học tập, rèn luyện và phấn đấu không ngừng của thanh niên theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là yếu tố quan trọng để xây dựng thế hệ thanh niên thời kỳ mới. Mở rộng mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên là nội dung quan trọng của công tác đoàn để giáo dục, bồi dưỡng, động viên và phát huy vai trò thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Câu hỏi 5: Mục tiêu của công tác thanh niên trong thời gian tới là gì?

Trả lời:

Nghị quyết đã xác định mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể của công tác thanh niên.

Mục tiêu chung là:

- Tiếp tục xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam giàu lòng yêu nước, tự cường dân tộc; kiên định lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có đạo đức cách mạng, ý thức chấp hành pháp luật, sống có văn hóa, vì cộng đồng; có năng lực, bản lĩnh trong hội nhập quốc tế; có sức khỏe, tri thức, kỹ năng và tác phong công nghiệp trong lao động tập thể, trở thành những công dân tốt của đất nước. Cổ vũ thanh niên nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão lớn, xung kích, sáng tạo, làm chủ khoa học – công nghệ tiên tiến, vươn lên ngang tầm thời đại.

- Hình thành một lớp thanh niên ưu tú trên mọi lĩnh vực, kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc; phấn đấu cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; góp phần to lớn vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, sánh vai cùng các nước tiên tiến trên thế giới.

- Đảng, Nhà nước và toàn xã hội chăm lo, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để thanh niên rèn luyện, cống hiến và trưởng thành, được học tập, có việc làm, nâng cao thu nhập, có đời sống văn hóa, tinh thần lành mạnh.

Mục tiêu cụ thể trong những năm trước mắt, trọng tâm từ nay đến năm 2010 là:

- Nâng cao nhận thức chính trị, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thanh niên, nhất là học sinh, sinh viên. Tập trung giáo dục, định hướng, cổ vũ thanh niên thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, tạo chuyển biến thực sự trong đạo đức, lối sống và hành động của thanh niên.

- Xây dựng môi trường xã hội lành mạnh để thanh niên rèn luyện, phấn đấu và trưởng thành. Nâng cao năng lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về công tác thanh niên trong thời kỳ mới. Tập trung nguồn lực, thực hiện thành công Chiến lược thanh niên đến năm 2010.

- Có chính sách mang tính đột phá trong đào tạo nguồn nhân lực trẻ, chất lượng cao, đáp ứng quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với giải quyết việc làm, tăng thu nhập, hưởng thụ văn hóa, vui chơi, giải trí của thanh niên.

- Tạo bước chuyển biến mới về chất lượng tổ chức và hoạt động của Đoàn, Hội; phát triển các loại hình tổ chức tập hợp thanh niên nhằm tăng tỉ lệ thanh niên được tập hợp; thu hẹp cơ sở yếu kém, tăng tỉ lệ thanh niên vào Đoàn, Hội. Xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn, hội, nhất là cán bộ chuyên trách có phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực, gương mẫu, có khả năng vận động, đoàn kết, tập hợp thanh niên. Bảo đảm đủ số lượng cán bộ đoàn chuyên trách theo quy định, ít nhất 70% đội ngũ cán bộ đoàn chuyên trách trong độ tuổi thanh niên.

- Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên từ đoàn viên, phấn đấu đạt tỉ lệ ít nhất 70% đảng viên mới được kết nạp từ đoàn viên. Bố trí, sử dụng cán bộ trẻ có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực nhằm tăng nhanh tỉ lệ cán bộ trẻ trong cơ cấu các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể từ Trung ương đến các cấp ở địa phương so với hiện nay.

Câu hỏi 6: Những nhiệm vụ và giải pháp của công tác thanh niên trong thời gian tới?

Trả lời:

Nghị quyết đã nêu chín nhóm nhiệm vụ và giải pháp nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với thanh niên và công tác thanh niên trong thời gian tới là:

Một là, tăng cường giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng, lối sống văn hoá, ý thức công dân để hình thành thế hệ thanh niên có những phẩm chất tốt đẹp, có khí phách và quyết tâm hành động thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Hai là, đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, tạo cơ hội cho mọi thanh niên được học tập, không ngừng nâng cao trình độ, có tri thức và kỹ năng, vươn lên ngang tầm với thanh niên các nước tiên tiến trên thế giới.

Ba là, nâng cao chất lượng lao động trẻ, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho thanh niên.

Bốn là, xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, tạo điều kiện cho thanh niên nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần, phát triển toàn diện.

Năm là, coi trọng hơn nữa việc trọng dụng tài năng trẻ, tạo bước chuyển có tính đột phá trong bố trí và sử dụng cán bộ trẻ trên tất cả các lĩnh vực.

Sáu là, xây dựng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vững mạnh, thực sự là trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên, đội dự bị tin cậy của Đảng.

Bảy là, tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, tổ chức kinh tế - xã hội và gia đình, phối hợp giáo dục, bồi dưỡng, phát huy thanh niên.

Tám là, phát huy sự nỗ lực phấn đấu của mỗi thanh niên trong học tập, lao động và cuộc sống; không ngừng rèn luyện đạo đức, lối sống, hoàn thiện nhân cách, trở thành công dân hữu ích, thành viên tốt trong gia đình, tích cực đóng góp cho sự phát triển của đất nước.

Chín là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên.

Câu hỏi 7: Nội dung tăng cường giáo dục lý tưởng đạo đức cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay là gì?

Trả lời:

Nghị quyết xác định những nội dung chính sau:

- Đầu tư hơn nữa công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để có luận cứ khoa học, thực tiễn, đề ra các chủ trương, chính sách giáo dục, bồi dưỡng thanh niên.

- Đổi mới nội dung và phương thức giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tăng cường giáo dục truyền thống văn hóa, lịch sử của Đảng và dân tộc, lý tưởng cách mạng cho thanh niên. Coi trọng giáo dục thanh niên trong hoạt động thực tiễn và các phong trào thi đua yêu nước.

- Xây dựng chuẩn mực đạo đức và định hướng giá trị mới cho thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

- Chủ động hơn công tác chính trị, tư tưởng; nắm bắt và dự báo tình hình tư tưởng thanh niên; kịp thời đấu tranh, tuyên truyền, làm rõ các âm mưu, luận điệu sai trái, giúp thanh niên hiểu và tích cực đấu tranh với âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

- Bảo đảm tính chính trị, sự định hướng của Đảng, làm phong phú và sâu sắc hơn các nội dung giáo dục, nhất là về lý tưởng, đạo đức, lối sống, trong hoạt động báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ, hướng thanh niên vươn tới giá trị chân – thiện – mỹ.

- Chấn chỉnh, đổi mới hoạt động và quản lý báo chí, xuất bản nói chung, nhất là báo chí, xuất bản trong hệ thống Đoàn, Hội, thực sự là phương tiện hữu hiệu giáo dục thanh niên.

- Mọi cấp ủy đảng, nhất là người đứng đầu thường xuyên nắm tình hình, định hướng và kiểm tra việc thực hiện công tác thanh niên; phân công đảng viên phụ trách công tác Đoàn, Hội; lãnh đạo Đảng, chính quyền các cấp định kỳ gặp gỡ, đối thoại với thanh niên. Kết quả công tác thanh niên, công tác đoàn và phong trào thanh niên là một tiêu chí đánh giá, xếp loại tổ chức cơ sở đảng hằng năm. Mỗi đảng viên phải là tấm gương sáng cho thanh niên noi theo.

Câu hỏi 8: Nghị quyết đã xác định những yêu cầu và giải pháp nào để phát huy sự nỗ lực phấn đấu của mỗi thanh niên?

Trả lời:

Nghị quyết đã nêu các yêu cầu và giải pháp sau:

- Mỗi thanh niên phải nhận thức rõ vị trí, vai trò, thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của thanh niên với Tổ quốc, luôn rèn luyện, phấn đấu, vươn lên trong học tập, lao động và cuộc sống; tích cực tham gia sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” và cho chính tương lai của thanh niên.

- Thanh niên luôn chủ động và không ngừng học tập, nâng cao trình độ, kiến thức chuyên môn, tay nghề; cần cù, chịu khó, sáng tạo, có tác phong công nghiệp trong lao động; vươn lên lập thân, lập nghiệp, làm giàu chính đáng.

- Thanh niên phải thường xuyên rèn luyện đạo đức, lối sống, nếp sống văn minh, giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc; có thái độ và hành vi ứng xử cao đẹp trong tình bạn, tình yêu; yêu thương con người, chăm lo hạnh phúc gia đình; kính trọng ông bà, cha mẹ, thầy, cô giáo và người lớn tuổi; tích cực rèn luyện, nâng cao sức khỏe, trở thành công dân hữu ích, thành viên tốt của gia đình; hăng hái tham gia các hoạt động cộng đồng.

- Thanh niên luôn xung kích, tình nguyện, sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; đảm nhận những việc khó khăn, gian khổ khi Đảng, Tổ quốc và nhân dân yêu cầu.

Câu hỏi 9: Nghị quyết đã đề ra các giải pháp nào để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên?

Trả lời:

Nghị quyết đã nêu các giải pháp sau:

- Củng cố, kiện toàn Uỷ ban Quốc gia về thanh niên Việt Nam đủ mạnh và giao cho Uỷ ban một số nhiệm vụ, quyền hạn để tham mưu cho Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác thanh niên.

- Các bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh niên theo lĩnh vực, địa bàn và theo sự phân công, phân cấp của Chính phủ.

- Thành lập Hội đồng công tác thanh niên ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương làm nhiệm vụ tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh niên.

- Xác định chỉ số về thanh niên và công tác thanh niên trong chỉ số thống kê quốc gia, trong chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các ngành, các cấp.

- Tăng cường vai trò giám sát và phản biện xã hội của Đoàn, các tổ chức thanh niên đối với việc xây dựng và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách về thanh niên, công tác thanh niên.

- Thực hiện tốt Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, tạo điều kiện để thiếu nhi phát triển toàn diện, trở thành những thanh niên tốt.

- Tập trung chỉ đạo để hoàn thành các mục tiêu trong Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam đến năm 2010; xây dựng Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam đến năm 2020, gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; cụ thể hóa các chủ trương của Đảng trong giáo dục, bồi dưỡng, phát huy thanh niên.

- Sửa đổi, bổ sung Luật Thanh niên phù hợp với tình hình mới. Ban hành Luật Việc làm. Sớm ban hành cơ chế, chính sách để giải quyết chỗ ở, nơi sinh hoạt văn hóa, thể thao cho thanh niên làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất và học sinh, sinh viên đang học tập.


        (Phần 2)


NGHỊ QUYẾT VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC

Câu hỏi 1: Vì sao Hội nghị Trung ương 7, khóa X bàn và ra Nghị quyết về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ?

Trả lời:

- Ở mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức.

- Trong thời đại ngày nay, khi mà cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ thông tin phát triển như vũ bão, tri thức ngày càng giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển của các quốc gia, dân tộc.

- Muốn thực hiện mục tiêu sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 đòi hỏi phải lựa chọn con đường phát triển rút ngắn, phát huy đến mức cao nhất mọi nguồn lực, tiềm năng trí tuệ của dân tộc, đặc biệt là năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức.

- Tri thức và đội ngũ trí thức đã trở thành nguồn lực hết sức quan trọng để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế thế giới. Tình hình đó đặt ra yêu cầu Đảng phải tiếp tục đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo đối với trí thức.

Câu hỏi 2: Khái niệm “trí thức” đã được Nghị quyết Trung ương 7, khoá X xác định như thế nào?

Trả lời:

Trong Phần mở đầu của Nghị quyết, Hội nghị Trung ương đưa ra khái niệm “trí thức” như sau:

Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội[1].

Bộ phận tinh hoa trong đội ngũ trí thức tiêu biểu cho trí tuệ của dân tộc, được xã hội suy tôn là hiền tài của đất nước, "là nguyên khí của quốc gia".

Với cách hiểu chung nhất như nêu trong Nghị quyết, trí thức có những đặc trưng cơ bản sau đây:

Thứ nhất, trí thức là những người lao động trí óc, có hiểu biết sâu và rộng, thông thường có trình độ đại học và tương đương trở lên, có năng lực sáng tạo, có trình độ phát triển về trí tuệ, nhạy bén với cái mới và quan tâm đến đổi mới để phát triển.

Thứ hai, trí thức là những người có trình độ chuyên môn sâu, rộng được hình thành qua đào tạo, bồi dưỡng và phát triển không ngừng bằng con đường tự đào tạo, lao động và hoạt động sáng tạo của mỗi cá nhân.

Thứ ba, trí thức là những người có nhu cầu cao về đời sống tinh thần và hướng tới các giá trị chân, thiện, mỹ; có lòng tự trọng, khát vọng tự do, dân chủ, công bằng.

Trước đây, thuật ngữ “tầng lớp trí thức” được sử dụng phổ biến. Gần đây, thuật ngữ “đội ngũ trí thức” được sử dụng nhiều hơn, nhằm nhấn mạnh đặc trưng lao động của trí thức và sự có mặt ngày càng đông đảo của trí thức trên các lĩnh vực, các địa bàn, trong các giai tầng xã hội.

Câu hỏi 3: Hội nghị Trung ương 7, khóa X đánh giá như thế nào về tình hình đội ngũ trí thức? Những đóng góp của trí thức thời gian qua và những hạn chế, yếu kém cần khắc phục?

Trả lời:

- Từ khi Đảng ra đời và lãnh đạo cách mạng, đội ngũ trí thức nước ta đã có những đóng góp to lớn, quan trọng vào thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Trong những năm qua, đội ngũ trí thức nước ta phát triển nhanh về số lượng và nâng dần về chất lượng, có nhiều đóng góp quan trọng vào công cuộc đổi mới đất nước.

+ Tham gia đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho đất nước, từng bước nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài.

+ Xây dựng những luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần làm sáng tỏ con đường phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

+ Sáng tạo nên những công trình, sản phẩm có giá trị về tư tưởng, nghệ thuật, văn hoá. Nâng cao trình độ khoa học và công nghệ của đất nước, vươn lên tiếp cận với trình độ của khu vực và thế giới.

+ Phần đông trí thức Việt Nam ở nước ngoài luôn hướng về Tổ quốc, có đóng góp ngày càng thiết thực vào sự phát triển của đất nước.

- Bên cạnh những ưu điểm, thành tích và đóng góp nói trên, đội ngũ trí thức của nước ta những năm qua cũng bộc lộ một số hạn chế, yếu kém cần khắc phục.

+ Số lượng và chất lượng chưa bảo đảm, cơ cấu chưa hợp lý về ngành nghề, độ tuổi, giới tính. Bộ phận tinh hoa, hiền tài còn ít, chuyên gia đầu ngành thiếu, đội ngũ kế cận hẫng hụt. Chưa có nhiều tập thể khoa học trong nước mạnh.

+ Hoạt động nghiên cứu khoa học thiếu gắn bó mật thiết và chưa đáp ứng yêu cầu đa dạng, phong phú của sản xuất và đời sống.

+ Trình độ của đội ngũ trí thức trong nhiều cơ quan nghiên cứu và các trường đại học còn bất cập, tụt hậu so với yêu cầu phát triển đất nước và so với một số nước tiên tiến trong khu vực, nhất là năng lực sáng tạo, khả năng thực hành và ứng dụng, khả năng liên kết, hợp tác với bên ngoài.

+ Một bộ phận trí thức thiếu ý chí vươn lên, thụ động, bàng quan với thời cuộc. Một số người khác chỉ chăm lo lợi ích cá nhân, đạo đức nghề nghiệp yếu kém, dễ bị mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường và các thế lực cơ hội, phản động lôi kéo, kích động.

Câu hỏi 4: Những ưu điểm, thành tích và hạn chế, yếu kém của công tác xây dựng đội ngũ trí thức thời gian qua? Nguyên nhân?

Trả lời:

- Những ưu điểm nổi bật là:

+ Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, đặc biệt là các nghị quyết chuyên đề về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và văn nghệ, chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài... để tạo động lực thúc đẩy sự sáng tạo, cống hiến của đội ngũ trí thức.

+ Nhà nước đã thực hiện các chính sách xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống đào tạo, nghiên cứu; đổi mới cơ chế quản lý, tăng cường đầu tư cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và văn nghệ; các chính sách sử dụng và tạo môi trường phát huy vai trò của trí thức; chính sách đãi ngộ, tôn vinh trí thức, lập các giải thưởng quốc gia, phong tặng các chức danh khoa học và các danh hiệu cao quý; thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài...

- Những hạn chế, yếu kém:

+ Đến nay vẫn chưa có chiến lược tổng thể về đội ngũ trí thức. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chưa thể hiện quan điểm lấy khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo làm "quốc sách hàng đầu", chưa gắn với các giải pháp phát huy vai trò đội ngũ trí thức trên nhiều lĩnh vực.

+ Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác trí thức chậm đi vào cuộc sống; có nơi, có lúc thực hiện thiếu nghiêm túc: một số chủ trương, chính sách không sát với thực tế; thiếu những chế tài đủ mạnh bảo đảm cho việc thực hiện có kết quả.

+ Hệ thống chính sách về trí thức còn thiếu và chưa phù hợp. Công tác tổ chức cán bộ, công tác quản lý, nhất là khâu đánh giá, sử dụng trí thức còn nhiều điểm không hợp lý, dẫn đến tâm tư nặng nề trong đội ngũ trí thức.

+ Các chủ trương, chính sách đào tạo đội ngũ trí thức chưa đồng bộ. Thiếu chính sách đủ mạnh thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài tham gia giải quyết những vấn đề của đất nước và tạo điều kiện để trí thức trong nước được giao lưu, hợp tác, làm việc ở các trung tâm khoa học và văn hóa lớn trên thế giới.

+ Cơ chế và chính sách tài chính hiện hành trong các hoạt động khoa học và công nghệ, văn hóa và văn nghệ còn nhiều bất cập.

- Nguyên nhân chủ quan của những hạn chế, khuyết điểm trên là:

+ Sự yếu kém của một số cấp ủy đảng, chính quyền trong lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện công tác trí thức; sự thiếu đồng bộ của hành lang pháp lý bảo đảm môi trường dân chủ cho các hoạt động sáng tạo.

+ Một số cán bộ đảng và chính quyền chưa nhận thức đúng về vai trò, vị trí của trí thức; những định kiến và chủ nghĩa kinh nghiệm trong một bộ phận cán bộ đã dẫn đến thái độ thiếu tin tưởng, thiếu dân chủ trong quan hệ với trí thức, thậm chí xem thường trí thức.

Câu hỏi 5: Mục tiêu xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là gì?

Trả lời:

- Nghị quyết xác định mục tiêu đến năm 2020 là:

+ Xây dựng được đội ngũ trí thức lớn mạnh, đạt chất lượng cao, số lượng đông và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển, từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới.

+ Gắn bó vững chắc giữa Đảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Đảng và Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân- trí thức.

- Mục tiêu trong những năm trước mắt là:

+ Hoàn thiện các cơ chế, chính sách đã ban hành, xây dựng cơ chế, chính sách mới nhằm phát huy có hiệu quả tiềm năng của đội ngũ trí thức.

+ Xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ trí thức đến năm 2020.


Câu hỏi 6: Quan điểm chỉ đạo xây dựng đội ngũ trí thức trong những năm tới được xác định như thế nào?

Trả lời:

Nghị quyết xác định ba quan điểm chỉ đạo sau:

Một là, về vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức:

- Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

- Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững.

Hai là, về trách nhiệm xây dựng đội ngũ trí thức:

- Xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm chung của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị, trong đó trách nhiệm của Đảng và Nhà nước giữ vai trò quyết định.

- Trí thức có vinh dự và bổn phận trước Tổ quốc và dân tộc, không ngừng phấn đấu nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chuyên môn, đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

Ba là, về phương hướng xây dựng đội ngũ trí thức:

- Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

- Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của trí thức.

- Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến; có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước.

Câu hỏi 7: Nghị quyết xác định những nhiệm vụ, giải pháp nào để xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước?

Trả lời:

Nghị quyết đã xác định 5 nhóm nhiệm vụ và giải pháp là:

- Hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức.

- Thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh trí thức.

- Tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức.

- Đề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động các hội của trí thức.

- Nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức.

Câu hỏi 8: Nội dung nhiệm vụ và giải pháp "Hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức".

Trả lời:

Để phát triển đội ngũ trí thức, cần hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức, cụ thể là:

- Ban hành quy chế dân chủ trong hoạt động khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hoá và văn nghệ.

- Tăng cường đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau cho các lĩnh vực này.

- Hoàn chỉnh hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và tăng cường thực thi việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả đối với sản phẩm sáng tạo, nhằm khuyến khích trí thức cống hiến và bảo đảm quyền và lợi ích của trí thức khi chuyển giao phát minh, sáng kiến, sáng chế.

- Đầu tư xây dựng một số khu đô thị khoa học, khu công nghệ cao, trường đại học trọng điểm, cơ sở nghiên cứu, các trung tâm văn hoá bảo đảm tính dân tộc và hiện đại nhằm thúc đẩy hoạt động sáng tạo của trí thức trong và ngoài nước.

- Mở rộng hợp tác và giao lưu quốc tế về khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hoá và văn nghệ.

Câu hỏi 9: Nội dung của nhiệm vụ và giải pháp "Thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức"

Trả lời:

Đó là các nội dung chính sau:

- Rà soát lại các chính sách hiện có và ban hành các cơ chế, chính sách mới bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần tương xứng với giá trị lao động và loại hình công việc của trí thức, để trí thức được hưởng đầy đủ, xứng đáng từ kết quả lao động sáng tạo của mình.

- Đổi mới công tác tổ chức cán bộ, khắc phục tình trạng hành chính hoá, thiếu công khai, minh bạch trong các khâu tuyển dụng, bố trí, đánh giá và bổ nhiệm cán bộ quản lý; quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý trong việc tiến cử và sử dụng cán bộ là trí thức.

- Đổi mới cơ chế, chính sách về lương, điều kiện làm việc, hợp tác quốc tế, hoạt động ở vùng khó khăn của đội ngũ trí thức.

Câu hỏi 10: Nội dung của nhiệm vụ và giải pháp "Tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức" ?

Trả lời:

Nghị quyết nêu các nội dung sau:

- Tiếp tục cải cách giáo dục từ cơ cấu, hệ thống đến chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo đại học; thực hiện các biện pháp gắn đào tạo với nhu cầu người học và nhu cầu xã hội. Thực hiện nghiêm túc kiểm định chất lượng đào tạo, tăng cường vai trò của các tổ chức kiểm định độc lập.

- Gắn đào tạo đại học và sau đại học với nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ.

- Xây dựng một số trường đại học ngang tầm khu vực và thế giới. Tạo điều kiện để các trường đại học, các viện nghiên cứu hàng đầu của các nước phát triển đầu tư mở cơ sở đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ ở Việt Nam.

- Thực hiện tốt việc đưa cán bộ, học sinh, sinh viên có đạo đức và năng lực đi đào tạo ở nước ngoài, nhất là đối với những ngành mà đất nước có nhu cầu cấp thiết.

- Xây dựng cơ chế, chính sách bảo đảm thực hiện có hiệu quả việc gắn đào tạo đại trà với đào tạo tài năng.

- Quan tâm phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng trí thức xuất thân từ công nhân, nông dân, cán bộ qua hoạt động thực tiễn và trí thức là người dân tộc thiểu số, trí thức nữ.

- Huy động tốt mọi nguồn đầu tư của các thành phần kinh tế.

Câu hỏi 11: Nội dung của nhiệm vụ và giải pháp "Đề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động các hội của trí thức".

Trả lời:

Nghị quyết xác định các nội dung sau:

- Nâng cao nhận thức của các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc về vị trí, vai trò của các hội trí thức trong việc vận động, tập hợp, đoàn kết trí thức ở trong nước và trí thức người Việt Nam ở nước ngoài.

- Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các tổ chức hội, tạo môi trường lành mạnh để phát huy năng lực sáng tạo và bồi đắp phẩm chất của đội ngũ trí thức.

- Hoàn thiện cơ chế để các hội trí thức thực hiện tốt nhiệm vụ về tư vấn, phản biện, giám định xã hội. Tổ chức nhiều diễn đàn để đội ngũ trí thức có điều kiện tham gia, trao đổi, góp ý cho các chủ trương, chính sách, dự án phát triển kinh tế - xã hội.

Câu hỏi 12: Nội dung của nhiệm vụ và giải pháp "Nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức" ?

Trả lời:

Nghị quyết xác định các nội dung sau:

- Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng và chính quyền về vai trò, vị trí quan trọng của trí thức; xác định công tác trí thức là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp.

- Làm tốt công tác tư tưởng để toàn xã hội hiểu đúng và đề cao vai trò của trí thức; để đội ngũ trí thức nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình; hình thành ý thức và tâm lý xã hội tôn trọng, tôn vinh trí thức, coi “hiền tài là nguyên khí của quốc gia”, phát huy truyền thống “tôn sư trọng đạo”.

- Phát huy tài năng và trọng dụng những trí thức có phẩm chất tốt, có năng lực quản lý là đảng viên và không là đảng viên trong các cơ quan nhà nước và tổ chức sự nghiệp, nghiên cứu; thực hiện các phương thức phù hợp.

- Những người đứng đầu cấp uỷ đảng và chính quyền các cấp có trách nhiệm định kỳ tiếp xúc, lắng nghe ý kiến, đối thoại với trí thức về những vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng.

- Các cấp uỷ đảng từ Trung ương đến cơ sở có trách nhiệm trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra việc thể chế hoá các nhiệm vụ và giải pháp trong Nghị quyết thành các chính sách, chế độ, chế tài, quy chế cụ thể để thực hiện thắng lợi Nghị quyết.


   (Phần 3)

NGHỊ QUYẾT VỀ NÔNG NGHIỆP, NÔNG DÂN, NÔNG THÔN

Câu hỏi 1: Vì sao Hội nghị Trung ương 7, khoá X bàn và ra Nghị quyết về nông nghiệp, nông dân, nông thôn?

Trả lời:

- Nông nghiệp và kinh tế nông thôn là bộ phận quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nông nghiệp bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp; xuất khẩu nông sản đem lại nguồn ngoại tệ quan trọng cho nền kinh tế; tạo việc làm và thu nhập cho đa số người dân. Nông thôn là môi trường sống của đa số nhân dân, nơi bảo tồn và phát triển các truyền thống văn hoá dân tộc.

- Nông nghiệp, nông dân, nông thôn đóng vai trò to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Qua các thời kỳ, giai cấp nông dân luôn là lực lượng hùng hậu nhất đi theo Đảng, cùng với giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức là nền tảng chính trị của cách mạng, góp phần làm nên những trang sử vẻ vang của dân tộc.

- Phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân là nhiệm vụ chiến lược. Trong hơn 20 năm đổi mới, nông nghiệp, nông thôn liên tục phát triển, góp phần quan trọng ổn định tình hình chính trị, kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống của nhân dân. Thành tựu về phát triển nông nghiệp, nông thôn, xoá đói, giảm nghèo là một trong những thành tựu kinh tế nổi bật của nước ta trong thời kỳ đổi mới.

- Tuy vậy, hiện nay đang xuất hiện nhiều thách thức mới trong nông nghiệp, nông thôn và nông dân, ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững của quá trình công nghiệp hoá đất nước.Trước tình hình đó, Đảng cần phải xem xét, đánh giá đúng tình hình và có những quyết sách mạnh mẽ, giải quyết kịp thời các vấn đề đang đặt ra.

Câu hỏi 2: Giai đoạn 2000 - 2007 nông nghiệp nước ta đạt được những thành tựu như thế nào?

Trả lời:

- Trong điều kiện có nhiều khó khăn, toàn ngành vẫn có tốc độ tăng trưởng khá nhanh, giá trị gia tăng đạt bình quân 3,71%/năm, giá trị tổng sản lượng tăng bình quân 5,24%/năm.

- Cơ cấu nông nghiệp đã có sự chuyển dịch theo hướng phát triển các cây trồng, vật nuôi có thị trường, có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao hơn; tỉ trọng ngành trồng trọt giảm, chăn nuôi, thủy sản tăng.

- Khoa học - kỹ thuật được áp dụng khá rộng rãi, đã tạo nên cuộc cách mạng thực sự trong nông nghiệp, nông thôn.

- Cơ khí hóa nông nghiệp có bước tiến bộ.

- Năng suất và giá trị sản xuất năm 2007 đạt 29,2 triệu đồng/ha/năm; tỉ suất hàng hóa và xuất khẩu tăng nhanh, bình quân 16,85%/năm; một số mặt hàng xuất khẩu có vị thế quan trọng trên thị trường thế giới.

Câu hỏi 3: Các hình thức tổ chức sản xuất, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn đã đạt được những kết quả như thế nào trong giai đoạn 2000-2007?

Trả lời:

- Kinh tế hộ tiếp tục phát triển theo hướng mở rộng quy mô sản xuất, bình quân một hộ nông nghiệp sử dụng 0,63 ha đất.

- Kinh tế trang trại phát triển theo hướng đa dạng và hiệu quả hơn. Đến ngày 01-7-2006 cả nước có 113,7 nghìn trang trại (tăng 86,4% so với năm 2001).

- Kinh tế hợp tác có chuyển biến tích cực, doanh nghiệp nông nghiệp tiếp tục được đổi mới và phát triển cả về số lượng, quy mô và vốn góp của doanh nghiệp.

- Cơ cấu kinh tế nông thôn có sự chuyển dịch khá nhanh theo hướng công nghiệp hoá, tỉ trọng khu vực công nghiệp, dịch vụ trong GDP ngày càng tăng. Năm 2007, công nghiệp và dịch vụ chiếm gần 80%, riêng ở khu vực nông thôn chiếm khoảng 60%.

- Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn được tăng cường, nhất là thuỷ lợi, giao thông, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất. Đến năm 2006, cả nước có 96,9% tổng số xã có đường ôtô đến trụ sở Uỷ ban nhân dân xã.

- Các lĩnh vực điện, nhà ở, chợ, trường học, lớp học, trạm y tế, văn hoá, thể thao, thông tin liên lạc, nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đều có bước phát triển mạnh mẽ, làm thay đổi đáng kể bộ mặt nông thôn nước ta.

Câu hỏi 4: Thành tựu chủ yếu trong việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người nông dân, phát huy dân chủ, xoá đói, giảm nghèo… thể hiện như thế nào trong nghị quyết?

Trả lời:

- Từ năm 1996 đến nay, thu nhập bình quân đầu người nông thôn tăng lên hơn 2,7 lần, năm 2006 bình quân đạt 6,1 triệu đồng/người, bình quân một hộ nông thôn đạt 26,1 triệu đồng, tăng 11,3 triệu đồng, tăng 75,8% so với năm 2002.

- Tỉ lệ hộ nghèo ở khu vực nông thôn giảm nhanh, từ 66,4% năm 1993; 45,5% năm 1998; 35,6% năm 2002; 27,5% năm 2004 xuống còn 18% năm 2007, mặc dù chuẩn nghèo đã tăng lên.

- Hầu hết các xã có sổ khám bệnh cho người nghèo, nhiều bệnh dịch được phòng ngừa và khống chế kịp thời. Năm 2006, tỉ lệ người được khám, chữa bệnh là 38,1% (cao gấp 2,07 lần năm 2002); có 51,6% cư dân nông thôn có bảo hiểm y tế.

- Số người biết chữ tăng từ 90,9% năm 2002 lên 92% năm 2006 (tính từ 10 tuổi trở lên).

- Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thông tin, thể dục, thể thao được tăng cường. Đã có trên 70% khu dân cư thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội; có 20,6% dân số thường xuyên tập thể dục thể thao, 3,4% dân số tham gia tập thể dục thể thao.

Câu hỏi 5: Nghị quyết đã nêu những khuyết điểm, yếu kém về vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn như thế nào?

Trả lời:

Các khuyết điểm, yếu kém đó là:

- Nông nghiệp phát triển kém bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt các tiềm năng và nguồn lực.

- Công nghiệp, dịch vụ nông thôn phát triển chậm, thiếu quy hoạch, quy mô nhỏ, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn (các nhà máy chủ yếu là quy mô nhỏ, trên 70% có vốn dưới 5 tỷ đồng).

- Các hình thức tổ chức sản xuất đổi mới chậm, chưa đủ sức phát triển mạnh sản xuất hàng hoá ở nông thôn. Kinh tế hộ nhỏ vẫn chiếm vai trò chủ đạo trong nông nghiệp ở nước ta.

- Nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội còn kém, môi trường ngày càng bị ô nhiễm, năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn thấp.

- Đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn còn thấp, chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn và giữa các vùng ngày càng lớn; số hộ nghèo còn nhiều; phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc như: thu nhập, việc làm và tình trạng nghèo, đói; đời sống ở nhiều vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là người nông dân còn chịu nhiều rủi ro, thiệt thòi; hệ thống an sinh xã hội yếu kém; xã hội nông thôn bị phân hoá...

Câu hỏi 6: Nghị quyết đã nêu nguyên nhân khách quan, chủ quan và những bài học kinh nghiệm trong vấn đề phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn như thế nào?

Trả lời:

- Về nguyên nhân khách quan:

+ Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam đi lên từ mức phát triển rất thấp, còn mang tính chất của một nền sản xuất tiểu nông, nhỏ lẻ, phân tán; có nơi thậm chí vẫn chủ yếu là tự cung tự cấp, công nghệ, kết cấu hạ tầng còn lạc hậu, nhân lực ít được đào tạo, trình độ kỹ năng nghề thấp.

+ Nước ta nằm trong khu vực thường xuyên có bão lụt (khoảng 10 cơn bão/năm), hàng năm thường bị thiệt hại lớn về người và của nhất là trong nông nghiệp, nông thôn.

- Nguyên nhân chủ quan:

+ Tư duy và nhận thức về vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn bất cập so với thực tiễn. Chưa hình thành được một cách cơ bản hệ thống lý luận về nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong giai đoạn mới.

+ Cơ chế, chính sách chưa đồng bộ, thiếu tính đột phá, một số không hợp lý nhưng chậm được điều chỉnh, tổ chức thực hiện kém, đặc biệt về các chính sách đất đai, tài chính, thương mại...

+ Quản lý nhà nước còn nhiều bất cập, đội ngũ cán bộ hưởng lương và trợ cấp ngân sách hiện đã khá đông và có xu hướng tăng thêm nhưng vẫn thiếu cán bộ giỏi.

- Về những bài học kinh nghiệm:

Một là: phải luôn xác định đúng vị trí, vai trò quan trọng có tính chất chiến lược và mối quan hệ gắn bó hữu cơ của nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

Hai là: kiên trì thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, kịp thời điều chỉnh và ban hành chủ trương, chính sách phù hợp với yêu cầu thực tiễn của cuộc sống và cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa...

Ba là: tập trung đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn để thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hoá, cải thiện điều kiện sống của nhân dân.

Bốn là: tập trung đào tạo nguồn nhân lực cho cư dân nông thôn, chú trọng phát triển khoa học- công nghệ, tạo bước đột phá cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả nông nghiệp.

Năm là: huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất là cấp cơ sở, giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn, làm nền tảng cho quá trình phát triển.

Câu hỏi 7: Nghị quyết đã nêu những quan điểm chỉ đạo nào trong phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở nước ta thời gian tới?

Trả lời:

Từ thực tiễn trong nước, nghiên cứu và tham khảo kinh nghiệm quốc tế, Nghị quyết nêu bốn quan điểm phát triển chính cho giai đoạn mới như sau:

- Nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước.

- Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng, hàng đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản; phát triển toàn diện, hiện đại hoá nông nghiệp là khâu then chốt.

- Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực. Phát huy cao nội lực; đồng thời tăng mạnh đầu tư của Nhà nước và xã hội; ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp, nông thôn; phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nông dân.

- Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Khơi dậy tinh thần yêu nước, tự chủ, tự lực tự cường, vươn lên của nông dân. Xây dựng xã hội nông thôn ổn định, hoà thuận, dân chủ, có đời sống văn hoá phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo động lực cho phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân.

Câu hỏi 9: Mục tiêu tổng quát và mục tiêu đến năm 2020 về vấn đề phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn là gì?

Trả lời:

- Mục tiêu tổng quát trong giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở nước ta là:

+ Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, hài hoà giữa các vùng; tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn.

+ Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài.

+ Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ.

+ Hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường. Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân – nông dân – trí thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

- Mục tiêu đến năm 2020 khi nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải đạt:

+ Tốc độ tăng trưởng nông - lâm - thuỷ sản đạt 3,5 - 4%/năm.

+ Duy trì diện tích đất lúa bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài.

+ Phát triển nông nghiệp kết hợp với công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn, giải quyết cơ bản việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn gấp 2,5 lần so với hiện nay. Lao động nông nghiệp còn 30% lao động xã hội, tỉ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%; số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới 50%.

- Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn.

- Nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có hiệu quả, bền vững công cuộc xoá đói, giảm nghèo; nâng cao trình độ giác ngộ và vị thế chính trị của giai cấp nông dân, tạo điều kiện để nông dân tham gia đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

- Nâng cao năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai. Ngăn chặn, xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường, từng bước nâng cao chất lượng môi trường nông thôn.

Câu hỏi 10: Những nhiệm vụ và giải pháp Nghị quyết đã đề ra cần thực hiện trong giai đoạn mới.

Trả lời:

Nghị quyết đã đề ra các nhiệm vụ và giải pháp chính như sau:

Một là: Xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn.

- Đẩy nhanh tiến độ quy hoạch sản xuất nông nghiệp để làm cơ sở, căn cứ cho xây dựng các chương trình, đề án phát triển của lĩnh vực này.

- Hiện đại hoá ngành trồng trọt trên cơ sở đẩy mạnh tổ chức các vùng sản xuất hàng hoá tập trung gắn với chế biến và ứng dụng khoa học công nghệ.

- Hiện đại hoá ngành chăn nuôi trên cơ sở phát triển mạnh chăn nuôi tập trung theo hướng công nghiệp và bán công nghiệp.

- Hiện đại hoá ngành thuỷ sản, lâm nghiệp, ngành muối, các ngành công nghiệp và dịch vụ ở các vùng nông thôn.

Hai là: Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn hiện đại gắn với phát triển các đô thị.

- Phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn về giao thông, thuỷ lợi, điện, thông tin- truyền thông, cơ sở hạ tầng thương mại, y tế, giáo dục.

- Xây dựng nông thôn mới, phát triển mạng lưới thị trấn, thị tứ làm cơ sở phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động, giảm áp lực gia tăng dân số tại các thành phố lớn. Phát triển nhà ở nông thôn.

- Tăng cường năng lực phòng, chống thiên tai và bảo vệ môi trường.

Ba là: Nâng cao nhanh đời sống vật chất tinh thần của cư dân nông thôn, nhất là các vùng còn nhiều khó khăn.

- Chú trọng tạo việc làm từ phát triển nông nghiệp.

- Tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói, giảm nghèo.

- Tăng cường nỗ lực nâng cao nhanh đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số.

- Phát triển giáo dục, y tế, văn hoá ở nông thôn; thực hiện các chính sách an sinh xã hội; bảo đảm quyền lợi bình đẳng của nông dân; phát huy dân chủ cơ sở; ngăn chặn tiêu cực xã hội, giữ vững an ninh, trật tự ở nông thôn; thực hiện bình đẳng giới; giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn hài hoà ở các vùng.

Bốn là: Đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có hiệu quả ở nông thôn.

- Tiếp tục hỗ trợ phát triển kinh tế hộ, sản xuất hàng hoá gia trại và trang trại.

- Phát triển các tổ chức của nông dân.

- Tiếp tục sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước, các nông, lâm trường quốc doanh.

- Phát triển mạnh doanh nghiệp nông thôn (tư nhân, FDI...) về cả số lượng và chất lượng.

Năm là: Phát triển nhanh việc đào tạo nguồn nhân lực; phát triển nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ tạo đột phá để hiện đại hoá nông nghiệp, công nghiệp hoá nông thôn.

- Về đào tạo nhân lực: đào tạo nghề nông cho nông dân; đào tạo nghề công nghiệp - dịch vụ; kiên trì và quyết tâm thực hiện tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ cơ sở; tổ chức đào tạo nông dân.

- Về phát triển nghiên cứu, chuyển giao và áp dụng khoa học - công nghệ: Tập trung nghiên cứu các vấn đề trọng tâm, tạo đột phá về khoa học công nghệ đưa vào sản xuất. Tăng đầu tư ngân sách cho phát triển khoa học công nghệ, đổi mới cơ chế quản lý nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học.

Tạo nguồn cung cấp khoa học công nghệ chất lượng cao. Tiếp tục đổi mới và đẩy mạnh phát triển công tác khuyến nông. Phát triển đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật cho nông nghiệp - nông thôn. Xây dựng mạng lưới dịch vụ kỹ thuật ở nông thôn.

Sáu là: Đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách, huy động cao các nguồn lực để phát triển nhanh kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân.

- Chính sách về đất đai gắn với quản lý rừng, biển và tài nguyên thiên nhiên.

- Chính sách bảo đảm nguồn vốn cho quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.

- Phát triển thị trường nông thôn.

Bảy là: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn.

- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.

- Đổi mới thể chế, tăng cường quản lý nhà nước để hỗ trợ hữu hiệu hơn cho phát triển nông nghiệp - nông thôn.

- Tăng cường công tác xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công - nông và đội ngũ trí thức trong tình hình mới.

- Phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể.

Câu hỏi 11: Nghị quyết đã xác định những nhiệm vụ cấp bách nào cần thực hiện từ nay tới năm 2010?

Trả lời:

Để đạt được mục tiêu do Đại hội Đảng lần thứ X đề ra tới năm 2010, Nghị quyết xác định cần tập trung chỉ đạo thực hiện tốt các nhiệm vụ chính sau đây:

- Hoàn thành cơ bản việc rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch đất đai, quy hoạch phát triển nông, lâm, ngư nghiệp; công nghiệp, khu công nghiệp và quy hoạch chuyên ngành theo vùng. Triển khai nhanh công tác quy hoạch xây dựng nông thôn gắn với quy hoạch phát triển đô thị.

- Hoàn thành sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2003, Luật Ngân sách Nhà nước và các luật khác có liên quan. Bổ sung, hoàn thiện các chính sách về tăng cường nguồn lực cho nông nghiệp, nông thôn. Mở rộng hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài vào sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn.

- Bảo đảm tiến độ các công trình xây dựng cơ bản phục vụ sản xuất nông nghiệp, phòng chống thiên tai; thực hiện một bước các biện pháp thích ứng và đối phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, nhất là nước biển dâng; khống chế, dập tắt kịp thời các dịch bệnh nguy hiểm đối với gia súc, gia cầm, thủy sản và cây trồng. Tăng cường công tác nghiên cứu, chuyển giao khoa học kỹ thuật, đào tạo nhân lực ở nông thôn.

- Tiếp tục triển khai có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn nông thôn, nhất là xóa đói, giảm nghèo ở các huyện, xã có tỉ lệ hộ nghèo trên 50%. Khắc phục nhanh những vấn đề bức xúc ở nông thôn, trước hết là những tồn tại liên quan tới vấn đề thu hồi đất. Triển khai chương trình "xây dựng nông thôn mới", trong đó thực hiện xây dựng kết cấu hạ tầng đi trước một bước.

- Tổ chức tốt việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (khóa X) về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên trên địa bàn nông thôn; củng cố bộ máy quản lý nhà nước về nông nghiệp.

Hết




[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kin Hi ngh ln th by Ban Chp hành Trung ương khoá X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.36.

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất