Thứ Hai, 30/9/2024
Hỏi - Đáp
Thứ Hai, 22/9/2008 7:24'(GMT+7)

Hỏi-Đáp về các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (Phần 2)

NGHỊ QUYẾT VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC

Câu hỏi 1: Vì sao Hội nghị Trung ương 7, khóa X bàn và ra Nghị quyết về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ?

Trả lời:

- Ở mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức.

- Trong thời đại ngày nay, khi mà cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ thông tin phát triển như vũ bão, tri thức ngày càng giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển của các quốc gia, dân tộc.

- Muốn thực hiện mục tiêu sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 đòi hỏi phải lựa chọn con đường phát triển rút ngắn, phát huy đến mức cao nhất mọi nguồn lực, tiềm năng trí tuệ của dân tộc, đặc biệt là năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức.

- Tri thức và đội ngũ trí thức đã trở thành nguồn lực hết sức quan trọng để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế thế giới. Tình hình đó đặt ra yêu cầu Đảng phải tiếp tục đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo đối với trí thức.

Câu hỏi 2: Khái niệm “trí thức” đã được Nghị quyết Trung ương 7, khoá X xác định như thế nào?

Trả lời:

Trong Phần mở đầu của Nghị quyết, Hội nghị Trung ương đưa ra khái niệm “trí thức” như sau:

Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội[1].

Bộ phận tinh hoa trong đội ngũ trí thức tiêu biểu cho trí tuệ của dân tộc, được xã hội suy tôn là hiền tài của đất nước, "là nguyên khí của quốc gia".

Với cách hiểu chung nhất như nêu trong Nghị quyết, trí thức có những đặc trưng cơ bản sau đây:

Thứ nhất, trí thức là những người lao động trí óc, có hiểu biết sâu và rộng, thông thường có trình độ đại học và tương đương trở lên, có năng lực sáng tạo, có trình độ phát triển về trí tuệ, nhạy bén với cái mới và quan tâm đến đổi mới để phát triển.

Thứ hai, trí thức là những người có trình độ chuyên môn sâu, rộng được hình thành qua đào tạo, bồi dưỡng và phát triển không ngừng bằng con đường tự đào tạo, lao động và hoạt động sáng tạo của mỗi cá nhân.

Thứ ba, trí thức là những người có nhu cầu cao về đời sống tinh thần và hướng tới các giá trị chân, thiện, mỹ; có lòng tự trọng, khát vọng tự do, dân chủ, công bằng.

Trước đây, thuật ngữ “tầng lớp trí thức” được sử dụng phổ biến. Gần đây, thuật ngữ “đội ngũ trí thức” được sử dụng nhiều hơn, nhằm nhấn mạnh đặc trưng lao động của trí thức và sự có mặt ngày càng đông đảo của trí thức trên các lĩnh vực, các địa bàn, trong các giai tầng xã hội.

Câu hỏi 3: Hội nghị Trung ương 7, khóa X đánh giá như thế nào về tình hình đội ngũ trí thức? Những đóng góp của trí thức thời gian qua và những hạn chế, yếu kém cần khắc phục?

Trả lời:

- Từ khi Đảng ra đời và lãnh đạo cách mạng, đội ngũ trí thức nước ta đã có những đóng góp to lớn, quan trọng vào thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Trong những năm qua, đội ngũ trí thức nước ta phát triển nhanh về số lượng và nâng dần về chất lượng, có nhiều đóng góp quan trọng vào công cuộc đổi mới đất nước.

+ Tham gia đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho đất nước, từng bước nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài.

+ Xây dựng những luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần làm sáng tỏ con đường phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

+ Sáng tạo nên những công trình, sản phẩm có giá trị về tư tưởng, nghệ thuật, văn hoá. Nâng cao trình độ khoa học và công nghệ của đất nước, vươn lên tiếp cận với trình độ của khu vực và thế giới.

+ Phần đông trí thức Việt Nam ở nước ngoài luôn hướng về Tổ quốc, có đóng góp ngày càng thiết thực vào sự phát triển của đất nước.

- Bên cạnh những ưu điểm, thành tích và đóng góp nói trên, đội ngũ trí thức của nước ta những năm qua cũng bộc lộ một số hạn chế, yếu kém cần khắc phục.

+ Số lượng và chất lượng chưa bảo đảm, cơ cấu chưa hợp lý về ngành nghề, độ tuổi, giới tính. Bộ phận tinh hoa, hiền tài còn ít, chuyên gia đầu ngành thiếu, đội ngũ kế cận hẫng hụt. Chưa có nhiều tập thể khoa học trong nước mạnh.

+ Hoạt động nghiên cứu khoa học thiếu gắn bó mật thiết và chưa đáp ứng yêu cầu đa dạng, phong phú của sản xuất và đời sống.

+ Trình độ của đội ngũ trí thức trong nhiều cơ quan nghiên cứu và các trường đại học còn bất cập, tụt hậu so với yêu cầu phát triển đất nước và so với một số nước tiên tiến trong khu vực, nhất là năng lực sáng tạo, khả năng thực hành và ứng dụng, khả năng liên kết, hợp tác với bên ngoài.

+ Một bộ phận trí thức thiếu ý chí vươn lên, thụ động, bàng quan với thời cuộc. Một số người khác chỉ chăm lo lợi ích cá nhân, đạo đức nghề nghiệp yếu kém, dễ bị mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường và các thế lực cơ hội, phản động lôi kéo, kích động.

Câu hỏi 4: Những ưu điểm, thành tích và hạn chế, yếu kém của công tác xây dựng đội ngũ trí thức thời gian qua? Nguyên nhân?

Trả lời:

- Những ưu điểm nổi bật là:

+ Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, đặc biệt là các nghị quyết chuyên đề về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và văn nghệ, chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài... để tạo động lực thúc đẩy sự sáng tạo, cống hiến của đội ngũ trí thức.

+ Nhà nước đã thực hiện các chính sách xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống đào tạo, nghiên cứu; đổi mới cơ chế quản lý, tăng cường đầu tư cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và văn nghệ; các chính sách sử dụng và tạo môi trường phát huy vai trò của trí thức; chính sách đãi ngộ, tôn vinh trí thức, lập các giải thưởng quốc gia, phong tặng các chức danh khoa học và các danh hiệu cao quý; thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài...

- Những hạn chế, yếu kém:

+ Đến nay vẫn chưa có chiến lược tổng thể về đội ngũ trí thức. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chưa thể hiện quan điểm lấy khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo làm "quốc sách hàng đầu", chưa gắn với các giải pháp phát huy vai trò đội ngũ trí thức trên nhiều lĩnh vực.

+ Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác trí thức chậm đi vào cuộc sống; có nơi, có lúc thực hiện thiếu nghiêm túc: một số chủ trương, chính sách không sát với thực tế; thiếu những chế tài đủ mạnh bảo đảm cho việc thực hiện có kết quả.

+ Hệ thống chính sách về trí thức còn thiếu và chưa phù hợp. Công tác tổ chức cán bộ, công tác quản lý, nhất là khâu đánh giá, sử dụng trí thức còn nhiều điểm không hợp lý, dẫn đến tâm tư nặng nề trong đội ngũ trí thức.

+ Các chủ trương, chính sách đào tạo đội ngũ trí thức chưa đồng bộ. Thiếu chính sách đủ mạnh thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài tham gia giải quyết những vấn đề của đất nước và tạo điều kiện để trí thức trong nước được giao lưu, hợp tác, làm việc ở các trung tâm khoa học và văn hóa lớn trên thế giới.

+ Cơ chế và chính sách tài chính hiện hành trong các hoạt động khoa học và công nghệ, văn hóa và văn nghệ còn nhiều bất cập.

- Nguyên nhân chủ quan của những hạn chế, khuyết điểm trên là:

+ Sự yếu kém của một số cấp ủy đảng, chính quyền trong lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện công tác trí thức; sự thiếu đồng bộ của hành lang pháp lý bảo đảm môi trường dân chủ cho các hoạt động sáng tạo.

+ Một số cán bộ đảng và chính quyền chưa nhận thức đúng về vai trò, vị trí của trí thức; những định kiến và chủ nghĩa kinh nghiệm trong một bộ phận cán bộ đã dẫn đến thái độ thiếu tin tưởng, thiếu dân chủ trong quan hệ với trí thức, thậm chí xem thường trí thức.

Câu hỏi 5: Mục tiêu xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là gì?

Trả lời:

- Nghị quyết xác định mục tiêu đến năm 2020 là:

+ Xây dựng được đội ngũ trí thức lớn mạnh, đạt chất lượng cao, số lượng đông và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển, từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới.

+ Gắn bó vững chắc giữa Đảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Đảng và Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân- trí thức.

- Mục tiêu trong những năm trước mắt là:

+ Hoàn thiện các cơ chế, chính sách đã ban hành, xây dựng cơ chế, chính sách mới nhằm phát huy có hiệu quả tiềm năng của đội ngũ trí thức.

+ Xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ trí thức đến năm 2020.


Câu hỏi 6: Quan điểm chỉ đạo xây dựng đội ngũ trí thức trong những năm tới được xác định như thế nào?

Trả lời:

Nghị quyết xác định ba quan điểm chỉ đạo sau:

Một là, về vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức:

- Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

- Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững.

Hai là, về trách nhiệm xây dựng đội ngũ trí thức:

- Xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm chung của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị, trong đó trách nhiệm của Đảng và Nhà nước giữ vai trò quyết định.

- Trí thức có vinh dự và bổn phận trước Tổ quốc và dân tộc, không ngừng phấn đấu nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chuyên môn, đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

Ba là, về phương hướng xây dựng đội ngũ trí thức:

- Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

- Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của trí thức.

- Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến; có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước.

Câu hỏi 7: Nghị quyết xác định những nhiệm vụ, giải pháp nào để xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước?

Trả lời:

Nghị quyết đã xác định 5 nhóm nhiệm vụ và giải pháp là:

- Hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức.

- Thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh trí thức.

- Tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức.

- Đề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động các hội của trí thức.

- Nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức.

Câu hỏi 8: Nội dung nhiệm vụ và giải pháp "Hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức".

Trả lời:

Để phát triển đội ngũ trí thức, cần hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức, cụ thể là:

- Ban hành quy chế dân chủ trong hoạt động khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hoá và văn nghệ.

- Tăng cường đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau cho các lĩnh vực này.

- Hoàn chỉnh hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và tăng cường thực thi việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả đối với sản phẩm sáng tạo, nhằm khuyến khích trí thức cống hiến và bảo đảm quyền và lợi ích của trí thức khi chuyển giao phát minh, sáng kiến, sáng chế.

- Đầu tư xây dựng một số khu đô thị khoa học, khu công nghệ cao, trường đại học trọng điểm, cơ sở nghiên cứu, các trung tâm văn hoá bảo đảm tính dân tộc và hiện đại nhằm thúc đẩy hoạt động sáng tạo của trí thức trong và ngoài nước.

- Mở rộng hợp tác và giao lưu quốc tế về khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hoá và văn nghệ.

Câu hỏi 9: Nội dung của nhiệm vụ và giải pháp "Thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức"

Trả lời:

Đó là các nội dung chính sau:

- Rà soát lại các chính sách hiện có và ban hành các cơ chế, chính sách mới bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần tương xứng với giá trị lao động và loại hình công việc của trí thức, để trí thức được hưởng đầy đủ, xứng đáng từ kết quả lao động sáng tạo của mình.

- Đổi mới công tác tổ chức cán bộ, khắc phục tình trạng hành chính hoá, thiếu công khai, minh bạch trong các khâu tuyển dụng, bố trí, đánh giá và bổ nhiệm cán bộ quản lý; quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý trong việc tiến cử và sử dụng cán bộ là trí thức.

- Đổi mới cơ chế, chính sách về lương, điều kiện làm việc, hợp tác quốc tế, hoạt động ở vùng khó khăn của đội ngũ trí thức.

Câu hỏi 10: Nội dung của nhiệm vụ và giải pháp "Tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức" ?

Trả lời:

Nghị quyết nêu các nội dung sau:

- Tiếp tục cải cách giáo dục từ cơ cấu, hệ thống đến chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo đại học; thực hiện các biện pháp gắn đào tạo với nhu cầu người học và nhu cầu xã hội. Thực hiện nghiêm túc kiểm định chất lượng đào tạo, tăng cường vai trò của các tổ chức kiểm định độc lập.

- Gắn đào tạo đại học và sau đại học với nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ.

- Xây dựng một số trường đại học ngang tầm khu vực và thế giới. Tạo điều kiện để các trường đại học, các viện nghiên cứu hàng đầu của các nước phát triển đầu tư mở cơ sở đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ ở Việt Nam.

- Thực hiện tốt việc đưa cán bộ, học sinh, sinh viên có đạo đức và năng lực đi đào tạo ở nước ngoài, nhất là đối với những ngành mà đất nước có nhu cầu cấp thiết.

- Xây dựng cơ chế, chính sách bảo đảm thực hiện có hiệu quả việc gắn đào tạo đại trà với đào tạo tài năng.

- Quan tâm phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng trí thức xuất thân từ công nhân, nông dân, cán bộ qua hoạt động thực tiễn và trí thức là người dân tộc thiểu số, trí thức nữ.

- Huy động tốt mọi nguồn đầu tư của các thành phần kinh tế.

Câu hỏi 11: Nội dung của nhiệm vụ và giải pháp "Đề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động các hội của trí thức".

Trả lời:

Nghị quyết xác định các nội dung sau:

- Nâng cao nhận thức của các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc về vị trí, vai trò của các hội trí thức trong việc vận động, tập hợp, đoàn kết trí thức ở trong nước và trí thức người Việt Nam ở nước ngoài.

- Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các tổ chức hội, tạo môi trường lành mạnh để phát huy năng lực sáng tạo và bồi đắp phẩm chất của đội ngũ trí thức.

- Hoàn thiện cơ chế để các hội trí thức thực hiện tốt nhiệm vụ về tư vấn, phản biện, giám định xã hội. Tổ chức nhiều diễn đàn để đội ngũ trí thức có điều kiện tham gia, trao đổi, góp ý cho các chủ trương, chính sách, dự án phát triển kinh tế - xã hội.

Câu hỏi 12: Nội dung của nhiệm vụ và giải pháp "Nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức" ?

Trả lời:

Nghị quyết xác định các nội dung sau:

- Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng và chính quyền về vai trò, vị trí quan trọng của trí thức; xác định công tác trí thức là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp.

- Làm tốt công tác tư tưởng để toàn xã hội hiểu đúng và đề cao vai trò của trí thức; để đội ngũ trí thức nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình; hình thành ý thức và tâm lý xã hội tôn trọng, tôn vinh trí thức, coi “hiền tài là nguyên khí của quốc gia”, phát huy truyền thống “tôn sư trọng đạo”.

- Phát huy tài năng và trọng dụng những trí thức có phẩm chất tốt, có năng lực quản lý là đảng viên và không là đảng viên trong các cơ quan nhà nước và tổ chức sự nghiệp, nghiên cứu; thực hiện các phương thức phù hợp.

- Những người đứng đầu cấp uỷ đảng và chính quyền các cấp có trách nhiệm định kỳ tiếp xúc, lắng nghe ý kiến, đối thoại với trí thức về những vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng.

- Các cấp uỷ đảng từ Trung ương đến cơ sở có trách nhiệm trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra việc thể chế hoá các nhiệm vụ và giải pháp trong Nghị quyết thành các chính sách, chế độ, chế tài, quy chế cụ thể để thực hiện thắng lợi Nghị quyết.


(Hết phần 2)

[1]. Sđd, tr.81-82.

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất