Đọc Chùa Đàn của Nguyễn Tuân, tôi nhận ra một hàm ý mà tác giả ngầm gửi gắm: kĩ nghệ là kẻ thù của nghệ thuật! Ở thời điểm viết Chùa Đàn,
chắc chắn Nguyễn Tuân không thể ngờ được khoa học công nghệ lại có
những bước phát triển vượt bậc như hiện nay, đặc biệt là sự xuất hiện
trí tuệ nhân tạo. Với những gì đang được chứng kiến, ta không thể không
nghĩ đến vấn đề: Thời đại trí tuệ nhân tạo phát triển, liệu con người có
còn độc quyền trong sáng tạo văn học?
Tháng
5 năm 1997, một sự kiện làm rúng động dư luận thế giới: cỗ máy tính
Deep Blue của Hãng IBM (Hoa Kì) đã đánh bại vua cờ Kasparov. Tiếp đó,
quán quân cờ vây thế giới Ke Jie cũng thúc thủ trước AlphaGo - trí thông
minh nhân tạo, sản phẩm của Google. Với cuộc cách mạng công nghệ 4.0,
khả năng phát triển trí tuệ nhân tạo được dự báo là rất ghê gớm.
Ngày
nay, người máy đã thâm nhập vào mọi hoạt động của con người. Trước hết
là trong lĩnh vực công nghiệp: Hàng ngàn công xưởng hiện đại giờ đây
vắng bóng con người, thay vào đó là “đội quân” robot tinh nhuệ, miệt mài
lắp ráp các linh kiện tinh vi để hoàn tất sản phẩm với độ chính xác gần
như tuyệt đối. Người máy sẽ cướp công ăn việc làm của con người - những
lời cảnh báo như thế đã vang lên trên nhiều diễn đàn.
Song
song với việc tạo ra robot làm việc trong lĩnh vực công nghiệp, các nhà
khoa học có tham vọng chế tạo những người máy có khả năng biểu lộ cảm
xúc, có thể tham gia vào việc làm ra các sản phẩm tinh thần - lĩnh vực
mà trước đây cứ ngỡ mãi mãi là độc quyền của con người. Người máy viết
tin tức cho báo chí, phát thanh viên kĩ thuật số… đã xuất hiện. Người
máy viết văn cũng đâu còn là chuyện tương lai. Một tác phẩm truyện được
viết bằng cách sử dụng trí tuệ nhân tạo đã lọt vào vòng chung kết của
cuộc thi văn học Nhật Bản mang tên Shinichi Hoshi - Japan News đưa tin.
Người máy viết văn, làm thơ? Văn học rồi sẽ đi về đâu? Liệu con người có bị phế truất khỏi văn đàn?
Có
thể trong tương lai, ở nhiều cửa hàng sách sẽ xuất hiện những tập thơ,
những cuốn tiểu thuyết, những bộ tranh truyện được thực hiện bởi người
máy. Các nhà quản lí “tác giả người máy” cũng có thể bằng mọi cách thu
hút độc giả nhằm chiếm lĩnh thị phần trên thị trường sản phẩm giải trí.
Người ta có quyền khai thác khả năng sản xuất với tốc độ cực nhanh của
trí tuệ nhân tạo để đáp ứng yêu cầu kinh doanh văn hóa. Cần nhớ rằng,
hiện nay, nếu một phóng viên cần 30 phút để viết một bản tin, thì người
máy chỉ cần 10 giây! Với đà này, có thể rồi đây, sẽ có một kiểu độc giả
thích tiêu thụ những sản phẩm tinh thần do người máy làm ra. Người ta
cũng có thể, qua khả năng của trí tuệ nhân tạo, phóng chiếu trí tưởng
tượng, tìm hứng thú trong việc thưởng thức những “tác phẩm văn học” của
người máy.
Như
vậy, dù muốn hay không, sản phẩm văn học của người máy cũng sẽ là một
phần tất yếu trong bức tranh tổng thể của văn học nhân loại. Tuy nhiên,
tôi không nghĩ rằng, thứ văn học do chính con người và chỉ con người làm
ra lại dễ dàng bị phế truất khỏi văn đàn, bởi quyết định điều này là
con người chứ không phải máy móc.
Vì sao vậy?
Câu trả lời, theo tôi, nằm ở hai chữ nhu cầu.
Đúng
vậy. Sáng tạo văn học là một nhu cầu thiết yếu của con người. Đã là nhu
cầu thì cần được thỏa mãn, bằng mọi cách. Với con người, viết văn là để
thỏa mãn nhu cầu giãi bày và giải tỏa, nhu cầu tự biểu hiện mình, nhu cầu cảm thông chia sẻ, nhu cầu hưởng thụ khoái cảm trong sáng tạo, nhu cầu được chơi.
Viết,
trước hết là cho mình, là giao tiếp với chính mình. Trong cái tĩnh lặng
gần như tuyệt đối của khoảnh khắc sáng tạo, người viết thì thầm trò
chuyện với ai đó, có khi chỉ là với mình. Khao khát giãi bày là một động
lực sáng tạo văn chương.
Giãi bày và giải tỏa
luôn song hành với nhau. Giãi bày để giải tỏa, thông qua giải tỏa để
được giãi bày. Nhà văn nhà thơ chỉ có thể viết một khi tâm trạng ắp ứ
nỗi niềm, đầu óc chứa chất suy tư, cảm thấy không nói ra là không được.
Viết, lúc bấy giờ là một hành động tự phóng tỏa những dồn nén, căng
thẳng tột cùng về tâm lí. Hoàn tất một tác phẩm là hoàn kết một quá
trình giải tỏa cảm xúc để sau đó tiếp tục khởi phát, tích dồn những cảm
xúc, suy tư mới từ sự va chạm với đời sống. Nó tạo nên một chuỗi phản
ứng không bao giờ ngưng nghỉ trong tâm lí sáng tạo của người nghệ sĩ. Nó
nặng nhọc chứ không hề nhẹ nhàng, bởi đó là “nghiệp dĩ”, là “cây thánh
giá tinh thần” mà mỗi nghệ sĩ tự nguyện mang vác, người khác không thể
mang hộ, nói gì đến robot. Vâng, ai có thể cất lên tiếng chửi thay cho
Hồ Xuân Hương khi chính bản thân bà mới là người thấm thía nỗi cay đắng
cùng cực của kiếp làm lẽ: Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng/ Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.
Ai có thể ngậm ngùi thay cho Nguyễn Du được khi nhà thơ mới là người ớn
lạnh khi nhìn thấu ba trăm năm sau vẫn bặt bóng tri âm: Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Viết
cho mình không loại trừ nhu cầu viết cho người khác. Đúng ra, hai nhu
cầu này không hề mâu thuẫn nhau. Đến một lúc nào đó, người viết cảm thấy
những gì diễn ra trong thế giới nội tâm không còn là của riêng mình
nữa. Nó phải được chia sẻ với ai đó, phải đánh động tâm tư, tình cảm của
ai đó bằng những mối liên hệ bí ẩn, vô hình. Không một nghệ sĩ nào tự
đủ trong thế giới của riêng mình. Trong văn học, thơ là thể loại thể
hiện rõ nhất tính độc thoại (tự nói với mình). Hoàng Ngọc Hiến cho rằng:
đọc thơ là “nghe trộm” nỗi niềm của người khác. Vậy mà, tự cổ chí kim,
có ai giữ thơ cho riêng mình đâu. Viết được vần thơ đắc ý, người ta cần
bạn tri âm để sẻ chia, đồng cảm. Đỗ Phủ xưa đã cảm khái: Nhị cú tam niên đắc/ Ngâm thành song lệ lưu/ Tri âm ví bất thưởng/ Quy ngọa cố sơn thu
(Ba năm viết được hai câu/ Ngâm xong đôi dòng lệ chảy/ Bạn xưa nếu
không thưởng thức/ Về nằm núi cũ mùa thu). Ứa lệ khi biết tin Dương Khuê
mất, Nguyễn Khuyến mới thấm thía cái hụt hẫng của người làm thơ mà vắng
bạn tri âm: Câu thơ nghĩ đắn đo không viết/ Viết đưa ai, ai biết mà đưa…
Lí luận văn học hiện đại đã xác quyết một điều: việc sản xuất văn bản
mới chỉ là một công đoạn. Dừng lại ở đó, chưa có văn học đúng nghĩa. Chỉ
khi nào văn bản được đánh thức bởi người đọc, tác phẩm mới thực sự có
được đời sống riêng. Sức sống của kiệt tác Truyện Kiều không
chỉ ở 3254 câu lục bát tuyệt diệu được Nguyễn Du viết ra từ hơn 200 năm
trước, mà còn ở sự tích tụ tình cảm của bao nhiêu thế hệ người đọc tiếp
xúc với nó từ bấy đến nay. Đó là điều chắc chắn không bao giờ có được ở
người máy, dù chúng tinh xảo đến đâu.
Song song với giãi bày là nhu cầu tự biểu hiện.
Nói cách khác, tự biểu hiện là một cấp độ khác của giãi bày. Viết văn,
không ai muốn giấu mình triệt để. Kể cả khi chỉ đề cập đến chuyện riêng
tư, thầm kín nhất (khát khao nhục cảm, đổ vỡ tình yêu…), người ta vẫn
muốn tự vẽ ra hình ảnh của mình một cách kín đáo. Hàn Mặc Tử thú nhận:
làm thơ nghĩa là “phản lại tất cả những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi
đều hết sức giữ bí mật”. Không chỉ ở thơ mà văn xuôi cũng vậy. Dựng lên
một thế giới, vô tình nhà văn đã làm lộ ra diện mạo của chính mình ngay
trong thế giới ấy. Chỉ bằng sự trải nghiệm cuộc sống với vô vàn trạng
thái cảm xúc, nhà văn mới tự họa hình tượng chính mình với những nét cá
tính độc đáo trong tác phẩm - điều không một thứ máy móc tinh vi nào có
thể làm nổi.
Việc
nhà văn, nhà thơ quyết giữ độc quyền trong lĩnh vực văn học còn có một
nguyên nhân khác: sáng tạo văn học vừa là một thứ lao động nặng nhọc,
khó khăn, lại vừa là nguồn khoái cảm bất tận. Nguyễn Tuân có lí khi dùng
từ “khổ hạnh” để nói về hoạt động đặc thù này. Vừa khổ đau vừa hạnh
phúc, đấy là bản chất của công việc viết văn làm thơ. Khổ đau vì day
dứt, trăn trở, trải nghiệm đắng cay, buộc phải “khơi những nguồn chưa ai
khơi và sáng tạo những cái gì chưa có” (Nam Cao), phải làm sao để mỗi
tác phẩm được viết ra là “một khám phá về nội dung và một phát minh về
hình thức” (Leonov). Khổ đau vì nghề viết là nghề mạo hiểm, dấn thân một
đời để có khi nhận lấy thất bại phũ phàng. Vygotsky - nhà nghiên cứu về
tâm lí sáng tạo nghệ thuật - đã đúc kết: hơn 90% người viết văn không
bao giờ thỏa mãn nội tâm khi nhìn lại những gì đã viết. Ấy là chưa kể
những oan trái, bầm dập, tai ương trong nghề nghiệp. Gương tày liếp về
điều này là những án văn tự cổ kim.
Nhưng
phía khác là những hứng thú đặc biệt mà nghề văn mang lại cho chủ thể.
Nhà văn, nhà thơ thường cảm thấy viết là một niềm hạnh phúc, là thụ
hưởng một thứ lạc thú. Nguyễn Tuân từng cảm thấy sung sướng đến ứa nước
mắt khi được ướm từng chữ lên trang giấy, và ông tưởng tượng sẽ chết
ngay nếu bị tước mất cái quyền viết.
Người
ta dùng hình ảnh “thai nghén”, “sinh nở” để chỉ hoạt động sáng tạo văn
học. Đúng quá. Một người mẹ nhìn đứa con vừa được đẻ ra từ cơn đau xé
ruột, qua chín tháng mười ngày thai nghén nặng nhọc chắc chắn sẽ cảm
thấy hạnh phúc lớn lao, khác biệt hơn nhiều so với người phụ nữ đưa tay
đón đứa con của mình qua dịch vụ đẻ thuê. Hạnh phúc “sinh nở” chỉ có thể
có ở nhà văn lao tâm khổ tứ viết nên tác phẩm chứ không thể có ở một
lập trình viên chờ sản phẩm được làm bởi người máy. Như vậy, nếu trong
sản xuất công nghiệp, con người thụ hưởng thành quả cuối cùng (sản phẩm), thì ở văn học, sự thụ hưởng diễn ra trong suốt cả quá trình, từ sản xuất đến thành quả. Không một bộ óc nhân tạo nào có thể thụ hưởng thay cho con người những khoái cảm sáng tạo này.
Cuối cùng, thêm một lí do để con người quyết giữ độc quyền: sáng tạo nghệ thuật còn là một trò chơi.
Ngày
nay, lí thuyết trò chơi trong văn học đã được thừa nhận rộng rãi. Các
nhà nghiên cứu cho rằng, chức năng giải trí không hề hạ thấp vị thế của
văn học nghệ thuật như quan niệm phổ biến một thời. Trong bối cảnh hiện
tại, khi con người phải đối mặt với những áp lực ghê gớm từ nhiều phía,
nhu cầu giải trí càng trở nên quan trọng. Ai có thể phủ nhận, trong quá
trình sáng tác một tác phẩm, chủ thể đã không từng trải qua cái cảm giác
được chơi: chơi vần điệu ngôn từ, chơi sắp xếp chữ nghĩa, chơi đuổi bắt
ý tứ, chơi ngâm vịnh, chơi kết cấu… Hầu như ở ngôn ngữ nào cũng có thủ
pháp chơi chữ trong văn học. Viết Truyện Kiều, dù muốn thể hiện
cảm hứng nhân văn cao đẹp, nhưng chắc chắn nhiều lúc Nguyễn Du cũng có
khoái cảm được chơi - một kiểu chơi nghệ thuật ngôn từ hết sức thanh
tao. Hẳn thế nên khi hạ câu lục bát cuối cùng để kết thúc tác phẩm, nhà
thơ đã tính đến tác dụng giải trí mà truyện kể của ông mang lại: Lời quê chắp nhặt dông dài/ Mua vui cũng được một vài trống canh. Đó không hề là những lời đãi bôi, khiêm tốn. Hành động Ngày dài ngâm ngợi cho khuây/ Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do
của Hồ Chí Minh ở trong tù chẳng phải là một kiểu chơi sao? Trải nghiệm
một đời sáng tạo phong phú, rốt cuộc, Tản Đà cũng chia văn chương của
mình thành hai loại: loại “văn thuyết lí” và loại “văn chơi”.
Chơi
trong văn học nghệ thuật, con người nhất định phải đóng vai chủ thể.
Chỉ với vai trò chủ thể, người chơi mới được hưởng trọn vẹn cái lí thú
mà trò chơi đưa lại. Chỉ khi trực tiếp chơi, con người mới được sống với
cái hồn nhiên, trẻ thơ của tâm hồn. Nhìn rộng ra một chút, trong bóng
đá, mặc dù trọng tài nhiều khi có những quyết định sai lầm, vậy mà người
ta vẫn rất hạn chế sử dụng công nghệ hỗ trợ. Thì ra, cái sai lầm của
trọng tài cũng được chấp nhận như một phần tất yếu của cuộc chơi. Thiếu
nó, các trận bóng đá khó tạo ra được những cao trào cảm xúc mà con người
muốn được thể hiện trên sân chơi môn thể thao vua. Cũng vậy, kể từ thời
điểm cỗ máy Deep Blue hạ gục vua cờ Kasparov (1997) đến nay, việc chế
tạo những “kì thủ robot” để thay thế con người trong những cuộc đấu đỉnh
cao không hề được tiếp tục. Đơn giản, vì người ta cho rằng, chơi cờ là
việc của con người. Về mặt này, sân chơi thể thao không khác sân chơi
nghệ thuật. Trong văn học, chỉ có trực tiếp tham gia trò chơi, con người
mới có điều kiện bộc lộ mọi trạng thái cảm xúc của mình. Quyền lợi tinh
thần ấy, chắc con người không dại gì để máy móc cướp mất.
Tuy
nhiên, bàn về vị thế con người trong sáng tạo nghệ thuật ở thời đại
4.0, ta cũng cần đặt câu hỏi: Liệu quyền tự quyết của con người rồi có
bị tước đoạt khi xuất hiện những thế hệ người máy có khả năng vượt xa
sức tưởng tượng của chúng ta hiện nay?
Theo
dự đoán của các nhà khoa học, đến năm 2050, trí tuệ nhân tạo sẽ thông
minh gấp 100 lần con người. Nếu vậy, đến một thời điểm nào đó, người máy
sẽ là một thực thể có ý thức tự giác, có khả năng tự trị, vượt khỏi quyền kiểm soát của con người. “Nó không còn là phương tiện mà là đối trọng, thậm chí đối lập
với con người”. Người máy sẽ tự thiết kế, tự chế tạo, tự lập trình, tự
khắc phục những khiếm khuyết để ngày càng hoàn hảo. Biết đâu, trong
“mắt” của người máy, loài người - một sinh vật vốn phức tạp, rắc rối -
không đáng tồn tại. Những gì mà con người tạo ra, kể cả văn chương nghệ
thuật, không ích gì với chúng, cần phải “thanh lí”. Đó không phải là
cướp quyền sáng tạo, mà là hủy diệt. Bên cạnh những nguy cơ diệt vong
của nhân loại như cạn kiệt tài nguyên, biến đổi khí hậu, chiến tranh
nguyên tử, oái oăm thay, còn có một nguy cơ vốn là sản phẩm kì diệu của
con người: trí tuệ nhân tạo. Cảnh báo đáng sợ này không phải
được đưa ra bởi một người bình thường, mà từ bộ óc xuất chúng nhất của
thời đại chúng ta: Stephen Hawking./.
ĐẶNG LƯU (vannghequandoi.com.vn)