Thứ Bảy, 28/9/2024
Nghiên cứu trao đổi
Thứ Bảy, 1/5/2010 7:26'(GMT+7)

Bài hát mới, hay, sao hiếm?

(Ảnh minh hoạ)

(Ảnh minh hoạ)

Rất nhiều người cho rằng: Hiện nay bài hát mới, hay rất hiếm. Tại các sân khấu biểu diễn, trên màn hình và trên sóng phát thanh vẫn thường xuyên xuất hiện những ca khúc mới, nhưng gây được ấn tượng cho người nghe thì quá ít. Tất cả dường như “lào phào, dông dài” rồi trôi lướt đi, chẳng còn đọng lại chút gì trong lòng người nghe.

Hãy thử điểm lại, trong dăm bảy năm trở lại đây, số lượng ca khúc khiến công chúng yêu thích, truyền tụng, liệu đếm đầu ngón tay có được bao nhiêu? Có lẽ nghĩ mãi người ta cũng khó có thể khẳng định được đâu là bái hát thực sự hay, có chất lượng. Cũng có thể nhắc tới một số bài được coi là nổi tiếng, nhưng đó chưa phải là những tác phẩm được đông đảo công chúng yêu thích, nhất là đối với những người có gu thẩm mĩ cao. Xin lấy ví dụ, cách đây khoảng mươi năm xuất hiện một bài hát được nhiều bạn trẻ biết tới: bài Yêu nhau ghét nhau vẫn được một nam ca sĩ xứ Huế trình diễn nhiều nơi, trên cả truyền hình, được các bạn trẻ tán thưởng. Nhưng lẽ nào lại có thể coi bài hát đó là hay, là một tác phẩm thanh nhạc có giá trị khi giai điệu thì quá đơn giản đến mức dễ dãi và lời ca thì nôm na sơ sài. Một tiến sĩ trẻ chưa lập gia đình nhận định: “Người ta thích bài hát này giống như ngồi chơi thích cắn hạt bí vậy”. Một ví von thật ngộ, hóm hỉnh mà chí lý làm sao!

Lại có người nhận xét: Những năm tháng kháng chiến chống kẻ thù xâm lược “cả dân tộc cùng ra trận”, đã có rất nhiều bài hát hay “sống mãi với thời gian”. Quả rất đúng. Bằng chứng là đến tận hôm nay và có lẽ còn rất lâu nữa, người ta vẫn còn mê đắm, thích nghe và thích hát những “Làng tôi”, “Ngày mùa”, “Quê em”, “Lên ngàn”, “Con kênh xanh xanh”, “Lá xanh”, “Nhạc rừng" và vô số ca khúc ra đời giai đoạn chống Mỹ không thể kể hết được.

Dù có dễ tính, rộng rãi và sẵn sàng cảm thông cũng không thể chối bỏ một sự thật: hiện nay bài hát hay quá ít. Vì sao? Do đâu? Để lý giải căn kẽ ngọn ngành,có sức thuyết phục rất cần cắt nghĩa ở bối cảnh lịch sử, hoàn cảnh xã hội, đời sống tâm lý người sáng tác… Có lẽ một trong căn nguyên dẫn đến tình trạng trên là phương thức tổ chức sáng tác và hoàn cảnh ra đời cụ thể cho những bài hát.

Không là quá chủ quan và “quy chụp” khi cho rằng, hiện nay phần lớn các nhạc sĩ thường cho ra đời một “đứa con tinh thần” xuất phát chủ yếu từ 3 “nguồn động lực” sau: Một là viết theo “com măng”. Hai là tham dự những cuộc vận động, cuộc thi và ba là viết theo hứng thú. Lùi trở lại những năm tháng kháng chiến chống kẻ thù của cả dân tộc - giai đoạn có được nhiều bài hát hay như đã nói - thấy rằng, hầu như ở những thời điểm lịch sử đó, các nhạc sĩ chỉ sang tác theo hứng thú, tức là động lực thứ ba. Cũng có khi sáng tác theo một sự gợi ý cụ thể nào đó, nhưng không hề hứa hẹn, và không có một khoản đãi ngộ nào về vật chất. Ví dụ như trường hợp Văn Cao sáng tác Tiến quân ca, Công nhân Việt nam; Đỗ Nhuận viết Hành quân xa, Trên đồi Him Lam; Văn Chung viết Hò dân cày. Tuy có thể từ một sự gợi ý, nhưng các nhạc sĩ ngày trước đã viết bằng gan ruột máu thịt của mình, bởi họ luôn trăn trở thậm chí bức xúc điều họ viết. Còn ngày nay? Một ngành, một địa phương nào đó muốn có bài hát bèn nghĩ tới một số tên tuổi nhạc sĩ, thường là ở lớp lão thành (hoặc không có tên tuổi nhưng đang đảm nhận một vị trí quan trọng) mà không hề nghĩ tới họ có am hiểu về địa phương mình không, phong cách sáng tác của họ thế nào, và nhất là họ có còn sức viết tươi trẻ độc đáo nữa không? Ngày xưa khi các nhạc sĩ vừa nhắc ở trên được gợi ý sáng tác, họ đều ở tuổi trên 30. Trường hợp Văn Cao viết Tiến quân ca khi ông mới 21 tuổi là một ví dụ. Bây giờ các nhạc sĩ được “com măng” đa số là ngoài 60 tuổi. Thế mới có chuyện, có nhạc sĩ nọ tuổi đã khá cao, cũng có tiếng vì làm ở vì làm ở vị trí khác quan trọng trong Hội, nhưng tài năng thì chỉ ở mức “thường thường bậc trung”, luôn được các địa phương, đơn vị mời mọc, “com măng” cho “ngành ca”, “địa phương ca”… Vì viết nhiều quá nên nhạc sĩ này luôn phải có “lương khô”, ông đã lấy bài hát từng viết cho địa phương trước, tước bỏ lời, đặt lời mới cho phù hợp với địa phương sau.

Khi hàng loạt tỉnh, huyện được tách ra đã tốn khả  nhiều tiền của cho những đợt tổ chức sáng tác “tỉnh ca”, “huyện ca” theo cung cách trên, rốt cuộc vẫn hiếm có bài nào được cán bộ, nhân dân địa phương chấp nhận. Phần lớn những cuốn băng hình, băng tiếng được phát sóng một hoặc vài ba lần rồi lại “bỏ xó” để trôi vào quên lãng. Thực ra địa phương nào cũng đều muốn cơ sở mình có được bài hát hay, và công việc đó được trao cho ngành văn hoá đứng ra tổ chức sáng tác. Họ ngại hình thức vận động rộng rãi vì vừa mất thời gian, lại không mời được những nhạc sĩ có quan hệ thân thiết như ý... Vậy là những chuyện ngoài nghệ thuật đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc cho ra đời sáng tác, mà chất lượng thẩm mỹ chỉ có thể có khi người sáng tạo nó có cái tâm trong sáng hồn nhiên.

Ngày trước, người nhạc sĩ sáng tác bằng trái tim. Bằng sự rung động mãnh liệt, sự đồng cảm lớn lao với mọi diễn biến sự kiện, thăng trầm của đất nước, dân tộc. Rất nhiều tác phẩm nổi tiếng sống mãi trong lòng nhiều thế hệ Việt nam của các nhạc sĩ Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Đỗ Nhuận, Nguyễn Đình Thi… cho đến phút cuối cùng, tác giả chẳng nhận được tiền ở đâu gọi là nhuận bút. Tất nhiên bù lại là sự vô giá của lòng ngưỡng mộ, cảm phục của triệu triệu trái tim đối với các nhạc sĩ. Còn bây giờ, nhiều bài hát viết ra theo kiểu “com măng” nói trên mãi mãi chỉ là một mảnh giấy, thậm chí nghe lần đầu người ta còn thấy nhạt nhẽo mỏi mệt.

Còn các cuộc vận động hoặc thi sáng tác? Thực tế gọi là “vận động” cốt để cho thoải mái, thoáng hơn cho bớt sự gò bó, có vẻ quan trọng hoá hoặc cho tế nhị khi phải có người này cho điểm bài của người khác khi cũng là nhạc sĩ, chứ thực chất thì “vận động” và “thi” sáng tác chỉ là một kiểu, vì đều có ban giám khảo để xét và trao giải thưởng ở các mức tiền khác nhau. Tình hình cho thấy là: Càng ngày, những cuộc như thế càng ít đi. Đã ít. Lại tổ chức thiếu thuyết phục, gây sự phản ứng trong giới nhạc sĩ. Thứ nhất là có những cuộc viết không công khai rộng rãi, cứ “úp úp mở mở”, có vẻ như “ thông báo trong diện hẹp, ai biết thì gửi, kẻo đông quá, làm sao đọc bài xuể được.” (nguyên văn lời nói của một thành viên ban tổ chức cuộc thi sáng tác). Thứ hai, nhiều cuộc vận động đã có tình trạng: Hầu hết những người ở cơ quan đứng ra liên đới tổ chức lại trúng giải. Điều này rõ ràng đã hạn chế tính thuyết phục đối với dư luận. Vậy nên để có được bài hát hay vẫn rất cần gia tăng nhiều cuộc vận động sáng tác. Nhưng cần công bố công khai rộng rãi; và các ngành, đoàn thể cứ việc độc lập đứng ra tổ chức, chỉ cần mời một vài nhạc sĩ giỏi, đứng đắn làm cố vấn. Còn ban giám khảo thì không nhất thiết toàn nhạc sĩ, mà chỉ cần một hai bậc thầy nào đó, vô tư và đàng hoàng, còn thì hãy sử dụng giám khảo là những đồng chí lãnh đạo ngành (lĩnh vực đó) có hiểu biết, có gu âm nhạc, đặc biệt là tham khảo thêm điểm của một số “giám khảo nhân dân” có thể là những nhà báo sành âm nhạc. Và tất cả phải cho điểm kín, sau khi giấu tên các tác giả. Những người có chân trong ban tổ chức, giám khảo dứt khoát không có bài dự. Nếu tiếc tác phẩm, sợ uổng phí - đây cũng là một tâm lý chính đáng - thì xin đừng làm giám khảo.

Khắp nơi chúng ta đang ủng hộ tính dân chủ. Mong rằng trong lĩnh vực sáng tác âm nhạc, nhất là công việc tổ chức để cho ra đời các bài hát, rất nên phát huy điều đó.

Chỉ có những nỗ lực lớn, sự công minh, sòng phẳng, bình đẳng đối với tất cả các chủ thể sáng tạo, mới mong cải thiện được tình hình. Trách nhiệm thuộc về ai? Những cơ quan chức năng trong lĩnh vực văn hoá nghệ thuật, các hội âm nhạc, các cơ quan tuyên truyền, phổ biến âm nhạc chắc chắn phải nhận ra vai trò sứ mạng của mình./.

Thôn ca

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất