Bài 2: NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN
1. Các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng ngày càng được hiện thực hóa.
Một là, việc thực hiện đặc trưng tổng quát: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh từng bước được hiện thực hóa.
Đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân có bước tiến rõ. Đời sống và lối sống văn hóa có tiến bộ. Phong trào xây dựng gia đình văn hóa, làng, xã văn hóa, đoàn kết ở các khu dân cư có tiến bộ. Đất nước ngày càng mạnh hơn.
Quyền dân chủ được Hiến pháp khẳng định và thực hiện tốt hơn. Việc ban hành và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong thực hiện giám sát, phản biện thông qua Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, nhân dân góp ý xây dựng Đảng và chính quyền theo Quyết định 217, 218 của Bộ Chính trị ngày càng tốt hơn. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp ngày càng nhiều hơn, nhất là thực hiện quyền ứng cử, bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp ngày càng tiến bộ. Xã hội ngày càng công bằng, văn minh hơn.
Hai là, việc thực hiện nhân dân làm chủ có bước tiến mới.
Đảng và Nhà nước ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân, ý thức về dân chủ trong xã hội được nâng lên. Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn có tiến bộ.
Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực chính trị và kinh tế.
Ba là, việc xây dựng nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp đạt kết quả quan trọng.
Mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng đã có sự chuyển biến sang kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng khoa học – công nghệ, đổi mới và sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tiếp tục được đẩy mạnh, đạt một số kết quả quan trọng. Cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động có bước chuyển biến tích cực. Năng suất lao động và sức cạnh tranh được nâng lên.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tiếp tục được hoàn thiện. Vai trò, hiệu quả, sức cạnh tranh của các chủ thể, các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế được nâng lên. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành đồng bộ hơn, gắn kết với thị trường khu vực và quốc tế. Các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển. Vai trò của Nhà nước được điều chỉnh phù hợp với cơ chế thị trường, ngày càng phát huy dân chủ trong đời sống kinh tế - xã hội.
Bốn là, việc xây dựng, phát triển văn hóa, con người có tiến bộ.
Sự nghiệp xây dựng văn hóa, con người đã được Đảng, Nhà nước quan tâm trong các chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện nhiệm vụ xây dựng con người đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế có bước chuyển biến quan trọng. Bước đầu hình thành những giá trị mới về con người với các phẩm chất và trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, dân chủ, chủ động, sáng tạo, khát vọng vươn lên. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và của từng vùng, miền được kế thừa; nhiều di sản văn hóa được bảo tồn, tôn trọng. Việc xây dựng môi trường văn hóa đã được chú trọng hơn. Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa có nhiều khởi sắc.
Năm là, việc thực hiện các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết và giúp nhau cùng phát triển đạt kết quả quan trọng.
Đảng và Nhà nước tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây Duyên hải miền Trung. Các dân tộc dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Đấu tranh chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
Sáu là, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đạt những thành tựu quan trọng.
Quan điểm và thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được bổ sung, hoàn thiện một bước quan trọng và cơ bản. Hiến pháp năm 2013 khẳng định: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước được quy định đầy đủ hơn trong Hiến pháp năm 2013: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và cơ chế hành động của tổ chức bộ máy nhà nước được xác định rõ hơn và những bước tiến trong hoạt động. Vai trò của pháp luật trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, trong quản lý xã hội ngày càng được đề cao. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước được xác định rõ hơn và trong tổ chức thực hiện đã có những bước tiến quan trọng.
Bảy là, nước ta có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong ASEAN được củng cố. Đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và nhiều đối tác quan trọng. Hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, chủ động, tích cực tham gia các công việc chung của cộng đồng quốc tế, nâng cao vị thế của đất nước.
2. Thực hiện có kết quả các phương hướng cơ bản
Tám phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội được thực hiện đồng bộ, toàn diện và đã đạt được những thành tựu rất quan trọng:
Kinh tế vĩ mô ổn định, tăng trưởng kinh tế nhìn chung năm sau cao hơn năm trước, quy mô nền kinh tế tăng nhanh, nước ta trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình. Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện. Năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên.
Các đột phá chiến lược được đẩy mạnh triển khai. Mô hình tăng trưởng bao trùm lấy con người làm trung tâm, không để ai tụt lại phía sau; dựa vào phát huy trí lực con người để phát triển và vì con người bước đầu được hình thành, khẳng định, củng cố. Cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng được khẳng định.
Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ được chỉ đạo thực hiện đồng bộ, quyết liệt và đạt những kết quả tích cực, nhất là xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới.
Tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường, chính trị - xã hội ổn định; trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được phát huy và trở thành động lực phát triển đất nước. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố vững chắc hơn. Xây dựng Đảng được triển khai đồng bộ, toàn diện, gắn xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị, tổ chức với đạo đức.
Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí được chỉ đạo quyết liệt, đạt nhiều kết quả thiết thực, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị đạt kết quả khả quan, bộ máy bước đầu được tinh giản, chính phủ liêm chính, kiến tạo, xây dựng được củng cố.
Đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt nhiều thành tựu nổi bật. Vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Những kết quả trên khẳng định sự đúng đắn, phù hợp thực tiễn của các phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
3. Chú trọng giải quyết các mối quan hệ lớn.
Việc nhận thức và giải quyết 9 mối quan hệ cơ bản trên đã được Đảng ta thực hiện trong mối liên hệ hữu cơ với nhận thức và từng bước hoàn thiện 8 đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội Việt Nam cũng như 8 phương hướng lớn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Giải quyết đúng đắn 9 mối quan hệ đã tạo ra bước chuyển biến trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại. Chúng ta đã giữ vững được vai trò lãnh đạo của Đảng, tạo ra sự ổn định về chính trị trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Người dân tin tưởng vào đường lối đổi mới, vào sự lãnh đạo của Đảng, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường.
Gần 10 năm thực hiện Cương lĩnh năm 2011, cũng như gần 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta còn những hạn chế, bất cập. Cụ thể là:
Hiện thực hóa các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa còn chậm.
Một là, việc thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” còn rất chậm. Từ Đại hội VIII đến Đại hội XI đề ra mục tiêu đến 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đến Đại hội XII, Đảng ta xác định: không đạt được mục tiêu đề ra. Do đó việc thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh còn rất khó khăn.
Hai là, nhân dân chưa thật sự làm chủ. Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm. Có lúc, có nơi việc thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Ba là, nền kinh tế vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng, tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố về vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp, chưa dựa vào tri thức, khoa học và công nghệ, lao động có kỹ năng. Năng suất lao động chậm được cải thiện, thấp hơn nhiều so với một số nước trong khu vực. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế còn thấp. Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm, chưa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Việc hoàn thiện thể chế kinh tế còn chậm. Các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế hoạt động chưa hiệu quả. Kinh tế nhà nước chưa thực sự đóng vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể chậm được củng cố. Kinh tế tư nhân còn nhỏ bé. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn nhiều hạn chế, chủ yếu là công nghệ lạc hậu. Các loại thị trường hoạt động còn thiếu hiệu quả.
Bốn là, việc xây dựng văn hóa, con người còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Đạo đức, lối sống có mặt xuống cấp đáng lo ngại. Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu. Môi trường văn hóa thiếu lành mạnh. Một số loại tội phạm có chiều hướng gia tăng.
Năm là, đời sống nhân dân các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, vùng cao còn rất nhiều khó khăn, miền núi ngày càng tụt hậu so với miền xuôi và đô thị. Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy, có lúc, có nơi chưa phát huy được vai trò sức mạnh của nhân dân.
Sáu là, chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp. Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các thiết chế cơ bản trong bộ máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa còn những điểm chưa thực sự hợp lý, hiệu lực, hiệu quả. Hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, nhiều nội dung chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, còn chồng chéo, tính công khai, minh bạch, khả thi, ổn định còn hạn chế. Chưa thực sự thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương đổi mới chưa minh bạch; hiệu lực, hiệu quả ở nhiều nơi chưa cao.
Bảy là, quan hệ với các nước chưa thật sâu sắc. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế chưa thật chủ động và hiệu quả chưa cao. Trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn có lúc chưa theo kịp những chuyển biến mau lẹ, phức tạp của tình hình thế giới và khu vực.
Thực hiện các phương hướng cơ bản chưa mạnh mẽ.
Cùng với những thành tựu đạt được trên thì việc thực hiện các phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời gian qua vẫn còn những hạn chế:
Nền kinh tế phát triển chưa bền vững, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Cơ chế bao cấp biến tướng, trá hình vẫn tồn tại. Chúng ta không đạt mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020. Kinh tế tri thức chưa được quan tâm phát triển. Bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học còn nhiều bất cập. Văn hóa, xã hội còn có những mặt bất cập; giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành quốc sách hàng đầu. Xây dựng, phát triển con người Việt Nam toàn diện, còn có mặt, nhất là đạo đức, nhân cách chưa đáp ứng yêu cầu. Xây dựng Đảng về đạo đức chưa đạt mong muốn và yêu cầu. Bộ máy hành chính còn cồng kềnh, cải cách hành chính chưa được như mong muốn và chưa đạt yêu cầu. Tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng. Niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ được nâng lên nhưng chưa bền vững. Chưa kiểm soát tốt quyền lực trong bộ máy Đảng và chính quyền, mô hình, phương thức kiểm soát quyền lực trong bộ máy Đảng và Nhà nước cũng chưa rõ. Nội dung, phương thức của đảng cầm quyền, mô hình bộ máy nhà nước tinh giản, hiệu lực, hiệu quả còn chưa thật rõ.
Giải quyết các mối quan hệ lớn cho thật đồng bộ, hiệu quả.
Việc giải quyết các mối quan hệ lớn còn lúng túng, bị động, thiếu nhất quán. Chưa được quán triệt và thực hiện trong mọi kế hoạch và công việc của các bộ, ngành, các địa phương, cơ quan, đơn vị.
*
Những thành tựu đạt được cả về lý luận và thực tiễn nêu trên qua 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước (bổ sung, phát triển 2011) xuất phát từ những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta phù hợp quy luật tiến hóa của lịch sử và thực tiễn Việt Nam.
Thứ hai, thành tựu đạt được qua 20 năm Cương lĩnh (1991-2011) tạo tiền đề, điều kiện để phát triển trong 10 năm qua.
Thứ ba, nhờ có sự đoàn kết, thống nhất, nỗ lực phấn đấu, chung sức, chung lòng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Thứ tư, Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể có nhiều đổi mới, phối kết hợp nhịp nhàng, đồng bộ, bài bản trong việc lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt, tổ chức triển khai Cương lĩnh, tạo ra những chuyển biến tích cực trong việc phát huy đầy đủ, đúng đắn vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân, giải quyết kịp thời, đúng đắn, thích hợp và có hiệu quả các vấn đề cuộc sống đặt ra, nhất là các vấn đề quan trọng, nhạy cảm, bức xúc.
Thứ năm, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đã đem lại nhiều cơ hội, điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những hạn chế, bất cập qua gần 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), do 2 loại nguyên nhân:
Về khách quan: mô hình chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng còn mới mẻ, chưa có tiền lệ.
Về chủ quan: công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; việc tổ chức chỉ đạo chưa thật kiên quyết. Cụ thể là:
Thứ nhất, chưa thống nhất về mặt nhận thức lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, về kinh tế tri thức; còn cầu toàn quá về nghiên cứu lý luận nên chậm trong triển khai thực tiễn. Hơn nữa, chúng ta chậm tổng kết thực tiễn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ môi trường trong thời kỳ đổi mới để rút ra những bài học cần thiết cho thực hiện phương hướng này.
Thứ hai, chưa nhận thức rõ và thống nhất về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho rằng đây là mô hình kinh tế mới ở nước ta, nên không mạnh dạn học hỏi kinh nghiệm các nước khác được.
Thứ ba, chưa nhận thức, đánh giá đúng vai trò, vị trí của một số vấn đề văn hóa, xã hội, con người, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ trong mối quan hệ với kinh tế; chưa nhận thức hết vai trò sức mạnh mềm của văn hóa. Còn có tư tưởng tuyệt đối hóa kinh tế, còn tâm lý chỉ chú ý lo tăng trưởng GDP. Chúng ta chậm tổng kết thực tiễn việc xây dựng xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với xây dựng con người.
Thứ tư, chưa tập trung nghiên cứu những vấn đề mới liên quan đến quốc phòng, an ninh nảy sinh từ thực tế; còn thận trọng quá mức dẫn tới “né tránh” vấn đề.
Thứ năm, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền là vấn đề mới và khó cho nên chúng ta chưa nghiên cứu về mặt lý luận một cách toàn diện, bài bản. Đã vậy, chúng ta chưa tổng kết được thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam để rút ra bài học cho việc kiểm soát quyền lực tốt hơn, chưa quyết liệt trong việc loại bỏ những công chức biến chất, tha hóa ra khỏi bộ máy nhà nước. Việc xây dựng bộ máy nhà nước tinh giản, hiệu lực, hiệu quả bàn, tổ chức triển khai nhiều nhiều nhưng kết quả rất hạn chế.
Thứ sáu, chậm nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng, vai trò của xây dựng Đảng về đạo đức; tổ chức thực hiện trên thực tế công tác xây dựng Đảng về đạo đức chưa tốt; đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, cửa quyền, v.v.. trong bộ máy Đảng, chính quyền trong nhiều nhiệm kỳ Đại hội tuy đạt được những kết quả quan trọng, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu, mong mỏi của nhân dân và yêu cầu phát triển đất nước.
TG