Người Pháp quyết tâm trụ lại trên đất Hà Nội từ cuộc viễn chinh Bắc Kỳ lần thứ nhất năm 1873. Sau khi chiếm được Hà Nội (ngày 20-11-1873), thực dân Pháp, trong vòng không đầy một tháng, lần lượt đánh chiếm các tỉnh vùng châu thổ sông Hồng: Hưng Yên ngày 23 -11, Phủ Lý ngày 26 -11, Hải Dương ngày 3 -12, Ninh Bình ngày 5 -12 và Nam Định ngày 12-12. Mặc dầu, ngày 21-12, quân dân Hà Nội đã đánh bại quân Pháp ở trận Cầu Giấy làm nức lòng quân dân ta trên cả nước và đẩy quân Pháp vào thế bị động, nhưng triều đình Huế vẫn trượt dài trên con đường thỏa hiệp, đầu hàng. Ngày 15-3-1874, Triều đình Huế ký Hiệp ước mới với 22 điều khoản công nhận sự thống trị của Pháp trên miền Lục tỉnh, quyền đi lại, buôn bán, truyền đạo trên đất nước ta và đặc biệt cho phép người Pháp được quyền cư trú và đặt lãnh sự quán ở Hà Nội, Hải Phòng và Quy Nhơn. Trong Thương ước ngày 31-8 năm đó nhắc lại nội dung Hiệp ước trên và nói rõ thêm là Triều đình Huế phải nhượng cho chính phủ Pháp một khu đất rộng 5 mẫu (khoảng 2,5 ha) để xây dựng nhà cửa cho viên lãnh sự và những người tùy tùng. Từ tháng 1-1875 mới xác định vùng đất nhượng là khu Đồn Thủy. Đến tháng 5 năm đo, một thỏa ước giữa Tổng đốc Hà Nội Trần Đình Túc với phía Pháp mở rộng khu vực Đồn Thủy lên 18 ha, chạy dọc theo sông Hồng từ Viện Bảo tàng Lịch sử đến Bệnh viện Hữu nghị hiện nay. Tháng 10-1875, người Pháp khởi công xây dựng các công trình kiến trúc kiên cố trên khu nhượng địa theo bản thiết kế của sĩ quan công chính Varen như Tòa Lãnh sự được xây dựng theo phong cách cổ điển Pari, các tòa nhà hai tầng làm nơi ở cho sĩ quan, trụ sở chỉ huy quân sự, trại lính và kho tàng… Đó là những công trình kiến trúc đầu tiên mang dấu ấn văn minh Pháp hiện hữu trên mảnh đất Hà Nội mà bây giờ ta vẫn có thể thấy được trong khu Bệnh viện quân đội 108. Chính nơi này trở thành “vườn ươm văn hóa Pháp” tại Hà Nội.
Sau khi thôn tính nước Việt Nam và Campuchia, năm 1887, thực dân Pháp lập Liên Bang Đông Dương. Năm sau, ngày 1-10-1888, Pháp ép Vua bù nhìn Đồng Khánh chuyển trấn thành Hà Nội, cố đô Thăng Long xưa, thành nhượng địa của Pháp mà trước đó ngày 19-7 Tổng thống Pháp ký Sắc lệnh thành lập thành phố Hà Nội và xếp thành phố Hà Nội vào đô thị loại I như Sài Gòn, Hải Phòng. Từ đó, đô thị Hà Nội xưa (gồm phần thành Hà Nội xây theo kiểu Vôbăng và phần thị với 36 phố phường bao quanh) để cho những tên thực dân và những kiến trúc sư Pháp, từ Liôtây qua Hêbra đến Xêruyti, nhào nặn thành Thủ phủ của Liên Bang Đông Dương.
Trong quá trình cải biến đó, buổi đầu người Pháp đã ứng xử thô bạo, thiếu văn hóa đối với di sản văn hóa Việt Nam trên mảnh đất nghìn năm văn hiến này. Họ đã phá chùa Báo Thiên xây dựng từ năm 1057 để xây dựng Nhà Thờ Lớn năm 1884. Tiếp đó, họ phá chùa Báo Ân để dựng lên Phủ Thống Sứ Bắc Kỳ và Nhà Bưu Điện. Những pho tượng Phật quý trong chùa trở thành tài sản riêng của Công sứ Bônan(1). Cho đến năm 1894, họ đã phá gần hết thành Hà Nội. Ngày 13-2-1897, Pôn Đume sang Hà Nội nhậm chức Toàn quyền Đông Dương. Chứng kiến sự ứng xử thô bạo đối với di sản văn hóa người bản địa như vậy, ông đã phải thốt lên: “Tôi đến chậm quá không thể cứu vãn được những bộ phận đáng chú ý. Đặc biệt những cổng thành đáng được gìn giữ. Những cái đó có những đặc tính và những kỷ niệm có giá trị lịch sử đáng được chúng ta trân trọng. Những cái đó có thể tô điểm cho những khu phố tương lai...”(2). Từ đó, một mặt, trong chừng mực nào đó hạn chế những hành xử thô bạo đối với văn hóa truyền thống của Hà Nội nghìn năm văn hiến, mặt khác, chặn đứng quá trình “nông thôn hóa” đô thị Hà Nội khi Hà Nội mất vai trò kinh sư của đất nước.
Trong những năm nhào nặn Hà Nội thành Thủ phủ Liên bang Đông Dương nhằm tạo môi trường văn hóa xã hội thu hút vốn đầu tư và người Pháp sang làm ăn lâu dài, người Pháp đã để lại nơi đây những dấu ấn văn hóa của mình trên nhiều phương diện.
Trước hết, về quy hoạch thành phố.
Theo bản đồ năm 1902, 1928, 1936, không gian Hà Nội dần dần được mở rộng về phía Nam, phía Tây và đặc biệt vượt sông Hồng sang Gia Lâm thuộc tỉnh Bắc Ninh. Trong quá trình mở rộng không gian đó, người Pháp giữ lại và chỉnh trang khu phố cổ phía Bắc hồ Hoàn Kiếm, còn trên các phía khác, đường phố được quy hoạch theo ô bàn cờ và phân khu theo các chức năng của nó như hành chính, buôn bán, sản xuất công nghiệp, giải trí và cư trú cho người Âu và người Việt. Chẳng hạn như khu hành chính, từ đầu người Pháp đã xác định hai trung tâm hành chính-chính trị: khu phía Đông hồ Hoàn Kiếm với vườn hoa Pôn Be (bây giờ là vườn hoa Lý Thái Tổ) làm trung tâm, mọc lên những tòa nhà theo phong cách kiến trúc Pháp như Phủ Thống sứ Bắc Kỳ, Nhà Bưu Điện trung tâm, Tòa Đốc lý Hà Nội, Khách sạn Mêtrôpôn, Ngân hàng Đông Dương… Trung tâm hành chính-chính trị thứ hai nằm ở phía Nam hồ Tây mà tâm điểm là Dinh Toàn quyền Đông Dương và các cơ quan trực thuộc, Sở Tài chính Đông Dương (bây giờ là trụ sở Bộ Ngoại giao) được nối với trung tâm hồ Hoàn Kiếm bằng trục phố Paul Bert (bây giờ là phố Tràng Tiền và phố Hàng Khay) – phố B. Desbordes (Tràng Thi)– Điện Biên Phủ ngày nay.
Thứ hai, về kiến trúc.
Trước năm 1920, các công trình kiến trúc chủ yếu như Phủ Thống sứ, Dinh Toàn quyền, nhà Bưu điện, khách sạn Mêtrôpôn, Nhà hát Lớn đều được xây dựng theo phong cách kiến trúc cổ điển Pháp. Từ năm 1920 trở về sau, theo ý tưởng thiết kế của kiến trúc sư Hêbra, các công trình kiến trúc bắt đầu có sự kết hợp sáng tạo, hài hòa của kiến trúc hiện đại Pháp với những yếu tố kiến trúc truyền thống bản địa, tạo thành những tổ hợp kiến trúc phù hợp với môi trường tự nhiên và xã hội phương Đông. Ta có thể chỉ ra những công trình kiến trúc thành công theo ý tưởng của Kiến trúc sư Hêbra như Trường Đại học Đông Dương trên Đại lộ Bobillot (nay là phố Lê Thánh Tông), Bảo tàng Lui Finô (nay là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam), Sở Tài chính Đông Dương (nay là Bộ Ngoại giao), Viện Pastơ (nay là Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương). Tất cả những công trình kiến trúc đó tạo thành một di sản kiến trúc quý báu và trở thành một bộ phận không thể thiếu trong lòng Hà Nội nghìn năm văn hiến.
Thứ ba, về giao thông đô thị.
Năm 1902, chiếc cầu sắt vĩ đại mang tên Pôn Đume (còn dân ta vẫn quen gọi là cầu Long Biên hay cầu sông Cái), với 19 nhịp, đặt trên 20 trụ, dài 1.680 mét, nếu tính cả đường dẫn lên cầu hai đầu là 2.500 mét, được khánh thành, biến Hà Nội thành trung tâm giao thông vận tải trên cả nước và trên toàn Liên Bang. Nó liền đi vào ca dao của người Hà Nội chúng ta: Hà Nội có cầu Long Biên/ Vừa dài vừa rộng bắc trên sông Hồng. Năm 1905, từ ga Hàng Cỏ ta có thể đáp tàu hỏa đi Lạng Sơn, Đồng Đăng, đi Hải Phòng, đi Việt Trì, Lào Cai và đi Vinh, để đến năm 1936 đi đến tận ga Bình Chiểu, Sài Gòn. Cầu Long Biên vốn là chiếc cầu giành cho đường sắt, nhưng đến đầu những năm 20 của thế kỷ trước, người Pháp đã mở rộng cầu hai bên cho xe cộ và người đi bộ. Theo thống kê của người Pháp, ta biết được, năm 1925, lưu lượng xe và người qua lại hàng ngày trên cầu Long Biên là: 249 chiếc (166 xe du lịch, 79 xe khách và 4 xe cam nhông), 141 xe bò, 1.184 xe kéo, 344 xe đạp và 4.756 người đi bộ(3). Và thiết lập hai bến xe ô tô: Kim Liên cho xe khách chạy các tuyến đường phía Nam và Bến Nứa (Long Biên) cho xe khách chạy các tuyến phía Bắc. Cùng với nó, các phương tiện giao thông nội đô cũng tăng trưởng theo hướng hiện đại như xe đạp, ô tô và đặc biệt là các tuyến tàu điện lấy hồ Hoàn Kiếm làm trung tâm, mở ra theo các hướng như Bờ Hồ - Chợ Mơ, Bờ Hồ - Bạch Mai, Bờ Hô ì- Thái Hà - Hà Đông, Bờ Hồ - Bưởi, Bờ Hồ - Yên Phụ. Tiếng Leng keng tàu điện trở thành một loại âm thanh ký ức đối với người Hà Nội. Đáng tiếc là trong quá trình xây dựng Hà Nội chúng ta không giữ được nó.
Với sự hoạt động mạnh mẽ của các loại hình giao thông, đặc biệt là đường sắt, nền thương nghiệp, trong đó có nội thương, phát triển đáng kể. Nói đến việc buôn bán trong nước, trước hết phải nói đến chợ. Một hệ thống chợ đã hình thành và phát huy tác dụng trong địa hạt kinh tế, từ chợ quê – chợ huyện – chợ tỉnh – chợ lớn. Cũng như chợ lớn Bến Thành ở Sài Gòn, chợ lớn Đông Ba ở Huế, chợ Đồng Xuân ở Hà Nội đóng vai trò trung tâm buôn bán của một vùng rộng lớn, không chỉ của Bắc Kỳ, mà cả Bắc Đông Dương và vùng Hoa Nam, Trung Quốc. Hệ thống chợ đó góp phần giao lưu hàng hóa trên cả nước, thống nhất thị trường và trên tất cả là tạo ra chất keo cố kết cộng đồng dân tộc Việt Nam thành một khối vững chắc mà không một thế lực ngoại bang nào có thể phá nổi.
Thứ tư, nhà in và các loại ấn phẩm.
Trước khi có mặt người Pháp ở nước ta, các văn bản và sách của triều đình Huế phổ biến trong dân chúng đều qua kỹ thuật in bằng mộc bản. Vừa rồi, tổ chức UNSCO đã công nhận kho mộc bản của nhà Nguyễn (hiện đang được bảo quản tại Đà Lạt) là di sản ký ức nhân loại. Người Pháp tới mang theo kỹ thuật in ấn mới, hiện đại - kỹ thuật in ti pô vào nước ta. Dĩ nhiên đầu tiên được du nhập vào Sài Gòn, Nam Kỳ, sau đó mới tới Hà Nội, Hải Phòng và lan tỏa khắp Bắc Kỳ. Kỹ thuật in ấn mới đó như là một phương tiện hữu hiệu và nhanh chóng qua các ấn phẩm của nó mà một mặt, truyền bá văn minh phương Tây, văn minh Pháp vào Việt Nam và mặt khác, đẩy lùi dần ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa ra khỏi đất Việt. Ta có thể hình dung, nếu súng đạn giúp người Pháp chiếm đất, thì kỹ thuật in ấn mới là phương tiện chủ yếu giúp người Pháp thực hiện cuộc xâm lăng văn hóa, chinh phục con người Việt Nam.
Trong nghề in ấn, F.H. Scheneider đóng vai trò thực sự to lớn, không chỉ ở Sài Gòn với việc bao thầu phần lớn việc xuất bản các tờ báo chính, mà cả ở Hà Nội. Nguyễn Văn Vĩnh, một cây bút chính trong Đăng cổ tùng báo của Đông Kinh Nghĩa Thục năm 1907, được Scheneider lựa chọn truyền nghề, trở thành chủ bút của Đông Dương Tạp chí năm 1913 và sau đó tiếp nhận toàn bộ cơ sở in ấn ở xứ Bắc Kỳ và trở thành một ông chủ lớn trong nghề in ở Bắc và Trung Kỳ. Trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất, lợi dụng sự cách trở giữa chính quốc và thuộc địa bởi bom đạn và sự điều chỉnh chính sách kinh tế thuộc địa cho phù hợp với thời chiến của Chính quyền thuộc địa, nhiều doanh nhân nước ta nhảy vào kinh doanh trong địa hạt in ấn. Những nhà máy in của người Việt lần lượt ra đời như Nhà máy in Ngô Tử Hạ, Nhà máy in Lê Văn Phúc, nhà in Thực Nghiệp Dân báo, nhà in Lê Văn Tân..v.v… Một điều khá lý thú mà một tờ báo kinh tế của Pháp L’Eveil Economique, số ra ngày 2-1-1921, đã đăng bài Người An nam và buôn bán, trong đó có một nhận xét: “Những người Pháp xa Bắc Kỳ sáu, bảy năm nay quay trở lại sẽ thấy một sự thay đổi lớn. Họ đã có những cửa hàng lộng lẫy ở những phố sang trọng. Một trong những nhà in khá nhất ở Hà Nội là của một người Việt Nam”. Khi phần lớn nhà in nằm trong tay người Việt, đặc biệt năm 1926 xuất hiện một nhà xuất bản do một nhà yêu nước Việt Nam chủ trương – Nam Đồng thư xã của Phạm Tuấn Tài thì phương tiện này rẽ theo một hướng khác, không như người Pháp mong muốn. Báo chí Hà Nội thời này như Thực Nghiệp dân báo, Khai hóa nhật báo, Hữu Thanh tạp chí không chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi chính trị, kinh tế của tư sản dân tộc, mà còn hòa chung vào phong trào dân tộc sôi nổi trên cả nước thời đó như: Phong trào đòi ân xá Phan Bội Châu, Phong trào truy điệu Phan Chu Trinh… Từ các phong trào đó đã sản sinh ra một lớp những “chàng trai bãi khóa” gia nhập các tổ chức cách mạng vừa mới được thành lập như Việt Nam Cách mạng Thanh niên và Hội Phục Việt. Hay như Nhà xuất bản Nam Đồng của Phạm Tuấn Tài đã chuẩn bị tư tưởng cho sự ra đời của Việt Nam Quốc dân Đảng sau đó bằng việc xuất bản những cuốn sách mang nặng tinh thần dân tộc và lòng yêu nước, đặc biệt tháng 11-1926 ấn hành cuốn sách Tiểu sử và học thuyết của Tôn Dật Tiên của Dật Công (Phạm Tuấn Lâm) và Nhượng Tống (Hoàng Phạm Trân). Nối tiếp là báo chí theo khuynh hướng mác xít, mở đầu bằng tờ Thanh Niên, Lính Cách mệnh của Việt Nam Cách mạng Thanh niên, rồi đến Búa Liềm của Đông Dương Cộng sản Đảng và tờ Lao Động của Tổng Công hội Bắc Kỳ…
Rõ ràng, nghề in như là phương tiện thông qua đó tạo ra những ấn phẩm truyền bá văn minh phương Tây, văn minh Pháp, nhưng khi nằm trong tay người Việt trở thành công cụ qua đó tạo ra những ấn phẩm yêu nước theo nhiều mức độ và khuynh hướng khác nhau nhằm mục đích tối thượng là chống lại sự thống trị của họ, giành lại nền độc lập cho dân tộc.
Cuối cùng là hình thành một lối sống thị dân.
Trước khi người Pháp chính thức hiện diện trên đất Hà Nội tháng 10-1875, Hà Nội đã trải qua những cuộc bể dâu ghê gớm: từ vị trí kinh đô Thăng Long của nước Đại Việt trong suốt 800 năm, đến triều Nguyễn bị hạ xuống Trấn thành, rồi tỉnh thành, Hà Nội đang đứng trước ngưỡng cửa “nông thôn hóa thành thị”. Người Pháp tới, trong chừng mực nào đó đã chặn đứng được làn sóng suy thoái của Hà Nội bằng quyết tâm biến nơi đây thành Thủ phủ Liên Bang Đông Dương. Hà Nội được sống lại với một diện mạo mới, một kích cỡ mới. Bên cạnh giữ lại một phần thành Vô băng dưới thời Nguyễn và 36 phố phương xưa, người Pháp đã tạo ra một Hà Nội hiện đại hóa theo kiểu đô thị phương Tây. Hà Nội được mở rộng ra trên bốn hướng, dân cư đông đúc hơn. Cho đến năm 1928, Hà Nội là nơi cư trú của 126.137 người, gồm nhiều cộng đồng người khác nhau, đông nhất là người Việt, 118.327 người, rồi đến cộng đồng người Hoa, 4.428 người, người Pháp, 3.120 người, người Nhật, 19 người và các ngoại kiều khác. Những người cư trú trong thành phố, bất chấp nguồn gốc giai cấp, dân tộc, đều được gọi là thị dân. Họ sống bên nhau, cho nên trong quá trình chung sống, đồng thời với việc bảo lưu những truyền thống văn hóa mà họ mang theo trong hành trang của mình, họ đã tiếp nhận những giá trị văn hóa của các dân tộc khác sống bên cạnh họ. Có lẽ vì thế mà các cụ nhà ta đã rút ra một trải nghiệm sống thú vị: “Ăn cơm Tàu, lấy vợ Nhật, ở nhà Tây”.
Từ khi người Pháp xây Lãnh sự quán trên đất Hà thành cho đến khi người Pháp rời bỏ mảnh đất này bởi cuộc đảo chính của phát xít Nhật có độ dài trọn 70 năm. Mấy mươi vạn người Hà Nội đã đắp đổi gần 4 thế hệ, nếu chúng ta tính một thế hệ là 20 năm. Người Hà Nội trải qua 4 thế hệ đó đã hình thành nên một lối sống mới, tôi gọi là lối sống thị dân, khác xa với lối sống nông dân. Lối sống thị dân được biểu hiện rõ qua cái ăn, cái mặc, nơi ở, các phương tiện đi lại và nếp ứng xử. Chẳng hạn, người thành thị thích ăn quà không phải họ nhiều tiền, mà là do chợ ở đây họp suốt ngày, gần nơi ở, thậm chí hàng đưa đến tận nhà. Hoặc người thành thị mong có được một căn hộ khép kín... Ta có thể kể nhiều nữa về lối sống khác nhau của cư dân ở hai loại hình cư trú. Một hình ảnh thường thấy ở Hà Nội hoặc ở bất kỳ một thành phố lớn nào khác là người Hà Nội, sau bữa sáng, thường ngồi nhâm nhi tách cà phê nóng và lật xem những trang báo mới ra...
Tóm lại, thị dân chính là cơ sở vật chất để tiếp nhận văn minh từ bên ngoài tràn tới và như vậy mới có khả năng tiến kịp cùng nhân loại. Vì vậy, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước của Đảng ta thường nêu ra một khẩu hiệu phấn đấu “đưa nông thôn đuổi kịp thành thị”, là nhằm thực hiện tiêu chí đó.
Trong toàn bộ di sản văn hóa Thăng Long – Hà Nội nghìn năm có một phần di sản văn hóa người Pháp để lại cho chúng ta. Dĩ nhiên, những thứ mà họ để lại nằm ngoài ý muốn chủ quan của họ. Cái tư tưởng chủ đạo của họ là biến Hà Nội thành điểm đến hấp dẫn để gọi vốn đầu tư của tư bản Pháp và “trói chân” họ lâu dài trên mảnh đất này. Dẫu sao, trong quá trình tước đoạt, người Pháp để lại những dấu ấn văn hóa quý giá và chúng ta cần phải trân trọng lưu giữ nó, bởi đó, suy cho cùng, là một bộ phận hợp thành trong di sản văn hóa của Nhân loại./.
PGS.TS Phạm Xanh
------------------------
(1), (2) Masson. Hanoi pendant la periode heroique (Hà Nội trong thời kỳ lịch sử), Tr. 316, 85
(3) Jean-Pierre Aumiphin. Sự hiện diện tài chính và kinh tế của Pháp ở Đông Dương (1859-1939). Hội Khoa học lịch sử Việt Nam xuất bản- 1994, tr.134.