Nhân kết thúc năm Ngoại giao Văn hóa 2009, ông Phạm Gia Khiêm, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao đã có bài viết "Dấu ấn của năm Ngoại giao Văn hóa 2009".Trân trọng giới thiệu bài viết của ông Phạm Gia Khiêm:
Năm 2009 đã đi qua với những dấu ấn đáng nhớ của Ngoại giao Văn hóa Việt Nam. Tháng 5, Cù lao Chàm và Vườn quốc gia Mũi Cà Mau được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển của thế giới.
Tháng 6, Mộc Bản triều Nguyễn của Việt Nam lần đầu tiên được công nhận là Di sản tư liệu trong chương trình Ký ức thời gian. Tháng 9, tới lượt Quan họ Bắc Ninh và Ca trù được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Tháng 10, Việt Nam trúng cử với số phiếu cao vào Hội đồng Chấp hành UNESCO nhiệm kỳ 2009-2013 và UNESCO thông qua nghị quyết tham gia Đại lễ 1.000 năm Thăng Long.
Nhìn lại mười hai tháng qua, có thể nói Năm Ngoại giao Văn hóa 2009 đã thực sự được triển khai mạnh mẽ và đồng bộ với tư cách một trụ cột của nền Ngoại giao toàn diện Việt Nam, đóng góp xứng đáng vào việc thực hiện những nhiệm vụ đối ngoại mà Đảng và Nhà nước đã giao phó.
Với dân tộc Việt Nam, Ngoại giao Văn hóa không phải là một khái niệm mới. Gần sáu thế kỷ trước, Nguyễn Trãi đã từng tự hào: “Như nước Đại Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu.”
Lịch sử ngoại giao của dân tộc ta từ trước đến nay không có thời kỳ nào là không in đậm dấu ấn của văn hóa. Chất văn hóa này được thể hiện rõ ràng nhất trong tinh thần hòa hiếu của dân tộc, trong chiến lược “ngoại giao tâm công” của cha ông ta, trong những câu chuyện về sứ thần Đại Việt lấy thơ ca để giành thắng lợi trong đối ngoại.
Không chỉ kế thừa kho tàng văn hóa đặc sắc kết tinh qua nhiều thế hệ, Ngoại giao Văn hóa hôm nay còn là sự phát huy những thành tựu của hơn hai mươi năm Đổi mới, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa những giá trị truyền thống và một nền ngoại giao hiện đại, và là sự rộng mở tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại trong thời kỳ hội nhập.
Qua hai kỳ Hội nghị Ngoại giao (lần thứ 25 năm 2006 và 26 năm 2008), Ngoại giao Văn hóa đã từng bước khẳng định được chỗ đứng của mình trong công tác đối ngoại thời kỳ mới với nội hàm được cụ thể hóa và làm sâu sắc, như một bông hoa năm cánh đầy đặn - biểu tượng của Năm Ngoại giao Văn hóa 2009: là nhân tố dòng hải lưu mở đường cho quan hệ giữa ta và một số quốc gia, là chất xúc tác thúc đẩy ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế, là công cụ quảng bá mạnh mẽ văn hóa Việt Nam, là kênh vận động hiệu quả cho các di sản của đất nước, và là cửa ngõ tiếp thu có chọn lọc tinh hoa nhân loại.
Trên tinh thần ấy, trong bối cảnh đất nước ta chịu tác động sâu sắc của khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu, Ngoại giao Văn hóa năm qua đã được triển khai một cách chủ động và sáng tạo, có trọng tâm, trọng điểm, bước đầu gắn kết chặt chẽ với ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, phối hợp nhịp nhàng với công tác người Việt Nam ở nước ngoài, góp phần tạo dựng một nền tảng vững chãi cho nền ngoại giao toàn diện Việt Nam.
Có thể nói, thành công lớn nhất trong năm qua của Ngoại giao Văn hóa là tạo được bước chuyển biến rõ nét trong nhận thức cũng như hành động của các cấp, các ngành và địa phương về tầm quan trọng của công tác này và tạo dựng nền móng cơ bản để ta tiếp tục triển khai thành công chính sách Ngoại giao Văn hóa với 5 chức năng được xác định rõ ràng.
Ngoại giao Văn hóa được xác định là nhiệm vụ không chỉ của riêng Bộ Ngoại giao hay Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, mà là của mọi cơ quan từ trung ương đến địa phương, và của toàn xã hội.
Sự đa dạng hóa về lực lượng tham gia, từ các Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp tới các tầng lớp nhân dân đã hình thành nên một sức mạnh tổng hợp, và đây chính là nguyên nhân quan trọng hàng đầu dẫn tới sự khởi sắc của Ngoại giao Văn hóa trong thời gian qua.
Không chỉ có vậy, sự chuyển biến này còn có tác động lan tỏa, là chất xúc tác cho sự phối hợp thường xuyên hơn, chặt chẽ hơn giữa Bộ Ngoại giao, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch với các đơn vị và địa phương liên quan. Đây là điều kiện hết sức cần thiết để bảo đảm tính hiệu quả cũng như bền vững lâu dài của các hoạt động Ngoại giao Văn hóa.
Sự chuẩn bị sẵn sàng về nguồn lực là điều hết sức cần thiết, nhưng chỉ thế thôi chưa đủ. Bông hoa Ngoại giao Văn hóa còn cần một giá đỡ vững chãi để vươn lên đúng hướng và phát triển mạnh mẽ.
Bởi vậy, trong năm qua chúng ta đã đặc biệt chú trọng xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý cho Ngoại giao Văn hóa. Việc Nhà nước ta ban hành Luật Cơ quan Đại diện Việt Nam ở nước ngoài, ra Chỉ thị về việc tăng cường công tác Ngoại giao Văn hóa và thành lập Ban Chỉ đạo Ngoại giao Văn hóa đã tạo ra xung lực mới cho Ngoại giao Văn hóa Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Việc một số đề án Ngoại giao Văn hóa lớn được thông qua cũng là cơ sở quan trọng góp phần đẩy mạnh công tác thống nhất quản lý đối ngoại trong lĩnh vực Ngoại giao Văn hóa và phối hợp triển khai những hoạt động cụ thể.
Bên cạnh đó, khuôn khổ hợp tác giữa các Bộ, ngành và địa phương liên quan cũng từng bước được thiết lập, điển hình là hai Thỏa thuận hợp tác về Ngoại giao Văn hóa giữa Bộ Ngoại giao với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Thành phố Hà Nội ký đầu năm 2009.
Với nguồn lực được đa dạng hóa và khuôn khổ pháp lý được từng bước hoàn thiện, năm 2009 đã chứng kiến sự khởi sắc toàn diện của Ngoại giao Văn hóa. Trong đó, mạnh mẽ nhất phải kể đến công tác quảng bá.
Với phương châm “đưa Việt Nam ra thế giới và thế giới đến với Việt Nam”, các địa phương trên cả nước đã chủ động hơn trong việc phối hợp tổ chức những hoạt động Ngoại giao Văn hóa cũng như đẩy mạnh quảng bá hình ảnh địa phương mình, nổi bật là việc gắn kết hoạt động của Ngoại giao đoàn với các sự kiện văn hóa tại địa phương như Đêm Giao lưu văn hóa Quan họ, Festival Cà phê Buôn Ma Thuột, Festival Biển tại Nha Trang, Lễ hội Hoa Đà Lạt, Liên hoan Hát then Đàn tính tại Bắc Kạn, Hội thảo Cao nguyên Đá Đồng Văn tại Hà Giang…
Bên cạnh đó, công tác đào tạo cán bộ hỗ trợ địa phương làm Ngoại giao Văn hóa cũng được chú trọng, tăng cường.
Một khía cạnh khác ghi nhận nhiều thành công của Ngoại giao Văn hóa 2009 là công tác vận động. Bộ Ngoại giao đã hỗ trợ, phối hợp chặt chẽ với nhiều địa phương để xây dựng hồ sơ di sản và vận động UNESCO công nhận.
Sự chủ động này, kết hợp với chủ trương đa dạng hóa loại hình vận động, đã đem lại nhiều kết quả đáng khích lệ. Lần đầu tiên chúng ta có một hồ sơ - kho mộc bản triều Nguyễn - được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thuộc chương trình Ký ức thế giới. Bên cạnh đó, Quan họ Bắc Ninh và Ca trù được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể, Cù lao Chàm và Mũi Cà Mau được công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới.
Không dừng lại ở đa dạng hóa loại hình vận động, đối tượng vận động cũng được chúng ta mở rộng đáng kể trong năm qua: bên cạnh UNESCO là tổ chức quốc tế chủ chốt, còn có các tổ chức tư nhân như New7wonders, các kênh truyền hình như CNN, BBC, các doanh nghiệp như hãng taxi London…
Có thể nói Ngoại giao Văn hóa, bằng công tác quảng bá và vận động, đã hỗ trợ đắc lực các địa phương giới thiệu hình ảnh, danh lam thắng cảnh và những nét đặc sắc văn hóa của mỗi vùng miền, góp phần xúc tiến du lịch, thu hút đầu tư, đóng góp trực tiếp, thiết thực cho sự phát triển kinh tế-xã hội ở các địa phương có di sản.
Chức năng xúc tác và mở đường của Ngoại giao Văn hóa năm qua cũng được triển khai một cách tích cực, bài bản và có những đóng góp quan trọng. Tiêu biểu nhất là việc Ngoại giao Văn hóa sát cánh với công tác người Việt Nam ở nước ngoài triển khai nhiều hoạt động văn hóa đa dạng trên nhiều địa bàn như dự án dạy tiếng Việt, cầu truyền hình Xuân quê hương, chương trình Ngày Việt Nam…
Những hoạt động này vừa tạo ra những diễn đàn thu hút người Việt Nam ở nước ngoài tham gia, vừa góp phần giúp bà con gìn giữ truyền thống dân tộc, bản sắc văn hóa. Đây chính là chất xúc tác hiệu quả, thắt chặt tình cảm gắn bó của kiều bào đối với quê hương, nguồn cội.
Bên cạnh đó, những Không gian Việt, Ngày Văn hóa Việt được tổ chức ở nhiều địa bàn còn góp phần tăng cường tình hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước, từ đó mở đường và tạo thuận lợi cho ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế được triển khai mạnh mẽ hơn.
Cũng trong năm qua, việc tiếp thu kinh nghiệm quốc tế để xây dựng và hoàn chỉnh chiến lược Ngoại giao Văn hóa của đất nước đặc biệt được chú trọng. Nhiều đề tài nghiên cứu, nhiều cuộc tọa đàm, hội nghị, hội thảo đã được tổ chức, thu hút sự tham gia đông đảo của các nhà ngoại giao, nhà văn hóa, các chuyên gia, các Bộ, ngành, địa phương, Ngoại giao đoàn và doanh nghiệp.
Qua đó nội hàm của Ngoại giao Văn hóa đã được xác định rõ ràng hơn, phong phú hơn. Ngoại giao Văn hóa không còn được hiểu đơn giản là dùng các công cụ văn hóa để phục vụ các mục tiêu chính trị-kinh tế, mà đã được nhìn nhận là một mục tiêu quan trọng của chiến lược tổng thể về đối ngoại, là sức mạnh mềm để nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế.
Bước sang năm 2010, năm của nhiều sự kiện quan trọng đối với đất nước nói chung và đối ngoại nói riêng, nhiệm vụ của Ngoại giao Văn hóa là quảng bá mạnh mẽ hơn nữa hình ảnh Việt Nam, phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ với ngoại giao chính trị, kinh tế, thực hiện thắng lợi mục tiêu chung của công tác đối ngoại.
Trong đó, cùng với việc xây dựng Chiến lược Ngoại giao Văn hóa Việt Nam đến 2020, nhiệm vụ trọng tâm của Ngoại giao Văn hóa là triển khai hiệu quả các hoạt động phục vụ năm Việt Nam làm Chủ tịch ASEAN và các lễ kỷ niệm năm chẵn, năm tròn thiết lập quan hệ ngoại giao với 50 đối tác.
Bên cạnh đó, Ngoại giao Văn hóa sẽ tiếp tục phát huy những thành công của năm 2009: đẩy mạnh quảng bá đất nước, vận động UNESCO công nhận di sản mới, hỗ trợ cho công tác người Việt Nam ở nước ngoài và tăng cường đào tạo về Ngoại giao Văn hóa.
Với những thành tựu của mình, “Năm Ngoại giao Văn hóa” không chỉ lưu lại dấu ấn đậm nét trong thắng lợi chung của ngoại giao Việt Nam năm 2009, mà còn tạo đà quan trọng cho Ngoại giao Văn hóa tiến tới đóng góp nhiều hơn nữa cho việc tăng cường hiểu biết và quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và thế giới, đồng thời quảng bá hiệu quả hình ảnh một đất nước tươi đẹp, thân thiện và giầu tiềm năng đến bạn bè quốc tế.
Bước sang năm 2010, với nền tảng lý luận và kinh nghiệm thực tiễn được bổ sung trong thời gian qua, chúng ta tin tưởng rằng “bông hoa năm cánh” của Ngoại giao Văn hóa Việt Nam sẽ bừng nở rực rỡ hơn nữa, giúp Ngoại giao Văn hóa hòa chung với những nỗ lực của ngành Ngoại giao và của toàn dân tộc nhằm đóng góp cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.
Phạm Gia Khiêm