Theo báo cáo từ các hiệp hội thành viên, đối với hoạt động vận chuyển hành khách, do phải thực hiện giãn cách xã hội và thực hiện các biện pháp chống dịch, đặc biệt thực hiện quy định xe khách nếu được hoạt động thì số lượng hành khách được phép chở trên xe tối đa không quá 50% số ghế thiết kế; chi phí phát sinh do phải trang bị khẩu trang, sát khuẩn tay, sát khuẩn toàn bộ trên xe...
Cụ thể, xe khách chở khách tuyến cố định chỉ đạt khoảng 30% so với trước dịch, số xe nằm chờ tai bãi không hoạt động là trên 50%. Xe taxi chỉ chạy khoảng 20-30%, số km của xe hoạt động chỉ từ 100-150km (so với trước dịch bình quân trên 300km/ngày), số xe 'đắp chiếu' là 70-80%. Xe buýt sản lượng và doanh thu ước đạt 45-50% so với trước dịch.
Xe du lịch đạt khoảng 10-15% so với trước dịch, hầu hết số xe phục vụ du lịch phải nằm chờ tại bãi không hoạt động do khách quốc tế không được phép nhập cảnh vào Việt Nam. Ở trong nước, người dân phải thực hiện giãn cách xã hội nên không có nhu cầu đi du lịch nội địa. Xe vận chuyển khách hợp đồng chỉ chạy đạt 20-30%.
Với vận tải hàng hóa, báo cáo của Hiệp hội Vận tải ôtô Việt Nam cho thấy sản lượng và doanh thu ước đạt 70-80% so với trước dịch tùy theo từng vùng miền hay khu vực do vận tải hàng hóa nội địa bị gián đoạn ở khu vực có dịch, tình trạng thiếu vỏ container…; vận tải hàng hóa qua các cửa khẩu biên giới thời gian chờ đợi giao hàng kéo dài, chi phí phát sinh tăng cao di phải thuê lái xe dịch vụ để đưa xe sang Trung Quốc giao hàng.
Trước tình hình khó khăn của các đơn vị kinh doanh vận tải bằng xe ôtô do bị ảnh hưởng tiêu cực từ đại dịch COVID-19, Hiệp hội Vận tải ôtô Việt Nam tiếp tục đề nghị Chính phủ, Bộ Giao thông Vận tải và các bộ, ngành liên quan có các cơ chế, chính sách để hỗ trợ, giúp cho các doanh nghiệp vận tải vượt qua khó khăn hiện nay./.
V. Hùng