Thứ Bảy, 21/9/2024
Nghiên cứu trao đổi
Thứ Ba, 29/10/2013 15:46'(GMT+7)

Học truyền thống để hiện đại hóa

Hội Lim (Bắc Ninh) còn lưu giữ nhiều nét văn hóa truyền thống dân tộc. (Ảnh: Vũ An)

Hội Lim (Bắc Ninh) còn lưu giữ nhiều nét văn hóa truyền thống dân tộc. (Ảnh: Vũ An)

Chúng ta sẽ phân tích một so sánh nhỏ giữa Nhật Bản và Trung Hoa giai đoạn cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. ở Nhật Bản, vào thời kỳ cải cách của Minh Trị Thiên Hoàng có xuất hiện một thuật ngữ mà sau này là phương châm chung cho sự đi lên của đất nước này, đó là "Wakon Yousai", có nghĩa là "tinh thần Nhật Bản, tài năng phương Tây". Giải pháp được lựa chọn ở đây là mở cửa để những nền tảng tinh hoa của văn hóa Nhật có thể tiếp thu và đón nhận kiến thức kỹ thuật tiên tiến của phương Tây. Đối với nước Nhật, giải pháp đó, trên thực tế đã tỏ ra là có hiệu quả.

Trong khi đó, vào thời điểm mà người Nhật đang nghiền ngẫm cái khẩu hiệu "Wakon Yousai" để bắt tay vào quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa thì ở nước Trung Hoa Mãn Thanh, người ta cũng đưa ra một khẩu hiệu bề ngoài có vẻ giống với khẩu hiệu của người Nhật nhưng lại hàm chứa một nội dung khác "Vận dụng kiến thức của phương Tây vào trong kiến thức của Trung Hoa". Khẩu hiệu này đã phản ánh một giải pháp truyền thống theo hướng khác, hướng quay trở lại với chính mình.

Nó phản ánh tư tưởng của người Trung Hoa, vốn tự cho mình là văn minh hơn tất cả nên không phải là mở cửa như người Nhật mà là khép lại. Khi đó, người ta muốn tiếp thu kiến thức và công nghệ phương Tây bằng cách đồng hóa những kiến thức này, tức là tìm cách tiếp nhận nó nhưng lại không muốn thay đổi bản chất của mình. Cái "kiến thức Trung Hoa" được nêu khi đó mang tính bất biến trong một xã hội khép kín và đông cứng lại sau hơn 20 thế kỷ, dưới bàn thờ của một ông Khổng Tử dù vĩ đại nhưng đã quá già lão.

Người Nhật nêu cao tinh thần truyền thống để vượt ra khỏi xã hội truyền thống bước vào xã hội hiện đại, còn người Trung Hoa khi đó lại muốn nhờ vào kiến thức của phương Tây để hướng tới việc củng cố cơ cấu và trật tự của xã hội nội tại, duy trì và bảo vệ nó. Sự khác nhau cơ bản trong giải pháp truyền thống Trung Hoa và giải pháp truyền thống Nhật Bản đã dẫn đến những kết cục khác nhau, những xu hướng biến đổi và phát triển khác nhau của hai nước sau này.

Với việc phân tích so sánh trên, chúng ta không chỉ thấy tầm quan trọng của giải pháp truyền thống mà cả sự phức tạp của nó đối với việc phát triển một quốc gia.

Cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy trong giải pháp truyền thống, người ta hay bàn đến khái niệm "sự loại bỏ", sự phá vỡ, cắt bỏ bản thân mình. ở Nhật Bản, khi bước vào cuộc cải cách của Minh Trị Thiên Hoàng, người Nhật đã đấu tranh quyết liệt nhằm từ bỏ những quan niệm truyền thống về "bế quan tỏa cảng", "trọng nông ức thương" để mở rộng kinh doanh, buôn bán, phát triển kinh tế hàng hóa và tiến hành công nghiệp hóa. ở đây, sẽ thật là sai lầm khi hiểu sự kế thừa truyền thống lại chỉ là việc thêm thắt những nhân tố mới, hiện đại và một nguyên trạng cũ.

Nhiều công trình nghiên cứu gần đây ở Nhật Bản, Hàn Quốc; Đài Loan, Hồng Công (Trung Quốc) và một số nước khác đã nói tới việc các nước này phải tự "lột xác" mình như thế nào trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Phần lớn các tác giả của những công trình này đã cho rằng, truyền thống, trước khi trở thành nền tảng cho sự phát triển vẫn là thành lũy bảo thủ của những cái cũ, là đại diện của quá khứ.

Chúng ta còn nhớ, khi thực hiện mạnh mẽ công cuộc cải cách nước Nhật, Minh Trị Thiên Hoàng đã quyết tâm hướng về phương Tây và học tập phương Tây như thế nào. Việc cử sinh viên đi học phương Tây, cử những phái đoàn cấp cao đi nghiên cứu học tập dài hạn tại phương Tây, việc cải cách kinh tế, xã hội và quân đội theo mô hình của phương Tây cũng đã được chú ý đặc biệt.

Giải pháp truyền thống cũng không chỉ có nghĩa là duy trì, mà còn là phát triển và nâng cao ""sức mạnh"" của nhân tố này trong những điều kiện mới. Những công trình nghiên cứu về lịch sử sự phát triển công nghiệp hóa ở Nhật Bản cũng đưa ra những phát hiện khá lý thú. Chẳng hạn, khi thực hiện cuộc cải cách và mở cửa, Minh Trị Thiên Hoàng đã không dựa nhiều vào giới thương nhân mà vào chính lực lượng Samurai (Võ sĩ đạo) lực lượng vốn có truyền thống ghét cay ghét đắng thậm chí khinh miệt sự kinh doanh buôn bán. ông đã biết loại bỏ dần những vấn đề tư tưởng và tâm lý cũ kỹ, đưa một luồng suy nghĩ mới trên nền tảng lòng yêu nước và sự trung thành vào giới Samurai và phát huy được thế mạnh của lực lượng này. ông đã kết hợp được một cách thành công trong chính sách của mình cái đạo lý hết sức độc đoán và cương quyết của Samurai với việc kinh doanh và công nghiệp hóa.

Về điều này J.Mirochmerier đã đưa ra một nhận xét khá đúng đắn rằng: "Giới lãnh đạo thời Minh Trị sớm thấy rằng, giải pháp tốt nhất cho các vấn đề cản trở công nghiệp hóa nhanh chóng là sử dụng các nhân tài trước kia thuộc tầng lớp Samurai. Giới lãnh đạo này hiểu rất rõ những phẩm chất vô giá vẫn còn như là một biểu hiện đặc thù của tầng lớp này, chẳng hạn: Có học vấn, có ý thức trách nhiệm đối với xã hội, có lòng tự trọng và sự tận tâm với nhiệm vụ". Và quả thực trên thực tế, khi lực lượng Samurai kiên định và bảo thủ đã nhận thức được tính tất yếu của sự thay đổi và công nghiệp hóa, họ đã trở thành lực lượng đứng hàng đầu trong công cuộc cải cách, thúc đẩy sự cải cách tiến tới. Thật đáng ngạc nhiên khi thấy các võ sĩ đạo đã trở thành những nhà kinh doanh chủ chốt của nước Nhật công nghiệp hóa.

Các nước công nghiệp mới ở châu Á như Hàn Quốc, Xin-ga-po..., đều đã rất chú trọng tới việc phát huy những thế mạnh trong truyền thống của mình về văn hóa giáo dục, tinh thần ham học hỏi, rèn luyện, những phương pháp tổ chức và quản lý xã hội để hướng tới công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Một loạt các giá trị truyền thống về lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, tính đoàn kết và nhân ái trong tổ chức cộng đồng xã hội đã được quan tâm, phát huy và trở thành những phương tiện mạnh mẽ để kiểm soát và điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Bên cạnh sự duy trì các mối quan hệ gia đình truyền thống, các mối quan hệ gắn bó cá nhân với cá nhân vì lợi ích chung cũng được nhấn mạnh và phát triển với những nội dung hiện đại.

Kinh nghiệm của các nước vốn có những gần gũi văn hóa với Việt Nam nói trên về việc nghiên cứu và xử lý các giải pháp truyền thống, rõ ràng là những bài học quý giá đối với chúng ta trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa./.

GS. TS. Đặng Cảnh Khanh (QĐND)

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất