Thật khó mà tưởng tượng được rằng để đẩy mạnh công nghiệp hóa và phát triển, để
đi tới được một tương lai tươi sáng, người ta lại phải trước hết, hướng về học
hỏi quá khứ.
Chúng
ta sẽ phân tích một so sánh nhỏ giữa Nhật Bản và Trung Hoa giai đoạn cuối thế kỷ
19, đầu thế kỷ 20. ở Nhật Bản, vào thời kỳ cải cách của Minh Trị Thiên Hoàng có
xuất hiện một thuật ngữ mà sau này là phương châm chung cho sự đi lên của đất
nước này, đó là "Wakon Yousai", có nghĩa là "tinh thần Nhật Bản, tài năng
phương Tây". Giải pháp được lựa chọn ở đây là mở cửa để những nền tảng tinh hoa
của văn hóa Nhật có thể tiếp thu và đón nhận kiến thức kỹ thuật tiên tiến của
phương Tây. Đối với nước Nhật, giải pháp đó, trên thực tế đã tỏ ra là có hiệu
quả.
Trong
khi đó, vào thời điểm mà người Nhật đang nghiền ngẫm cái khẩu hiệu "Wakon
Yousai" để bắt tay vào quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa thì ở nước
Trung Hoa Mãn Thanh, người ta cũng đưa ra một khẩu hiệu bề ngoài có vẻ giống với
khẩu hiệu của người Nhật nhưng lại hàm chứa một nội dung khác "Vận dụng kiến
thức của phương Tây vào trong kiến thức của Trung Hoa". Khẩu hiệu này đã phản
ánh một giải pháp truyền thống theo hướng khác, hướng quay trở lại với chính
mình.
Nó
phản ánh tư tưởng của người Trung Hoa, vốn tự cho mình là văn minh hơn tất cả
nên không phải là mở cửa như người Nhật mà là khép lại. Khi đó, người ta muốn
tiếp thu kiến thức và công nghệ phương Tây bằng cách đồng hóa những kiến thức
này, tức là tìm cách tiếp nhận nó nhưng lại không muốn thay đổi bản chất của
mình. Cái "kiến thức Trung Hoa" được nêu khi đó mang tính bất biến trong một xã
hội khép kín và đông cứng lại sau hơn 20 thế kỷ, dưới bàn thờ của một ông Khổng
Tử dù vĩ đại nhưng đã quá già lão.
Người
Nhật nêu cao tinh thần truyền thống để vượt ra khỏi xã hội truyền thống bước vào
xã hội hiện đại, còn người Trung Hoa khi đó lại muốn nhờ vào kiến thức của
phương Tây để hướng tới việc củng cố cơ cấu và trật tự của xã hội nội tại, duy
trì và bảo vệ nó. Sự khác nhau cơ bản trong giải pháp truyền thống Trung Hoa và
giải pháp truyền thống Nhật Bản đã dẫn đến những kết cục khác nhau, những xu
hướng biến đổi và phát triển khác nhau của hai nước sau này.
Với
việc phân tích so sánh trên, chúng ta không chỉ thấy tầm quan trọng của giải
pháp truyền thống mà cả sự phức tạp của nó đối với việc phát triển một quốc gia.
Cũng
không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy trong giải pháp truyền thống, người ta hay
bàn đến khái niệm "sự loại bỏ", sự phá vỡ, cắt bỏ bản thân mình. ở Nhật Bản, khi
bước vào cuộc cải cách của Minh Trị Thiên Hoàng, người Nhật đã đấu tranh quyết
liệt nhằm từ bỏ những quan niệm truyền thống về "bế quan tỏa cảng", "trọng nông
ức thương" để mở rộng kinh doanh, buôn bán, phát triển kinh tế hàng hóa và tiến
hành công nghiệp hóa. ở đây, sẽ thật là sai lầm khi hiểu sự kế thừa truyền thống
lại chỉ là việc thêm thắt những nhân tố mới, hiện đại và một nguyên trạng cũ.
Nhiều
công trình nghiên cứu gần đây ở Nhật Bản, Hàn Quốc; Đài Loan, Hồng Công (Trung
Quốc) và một số nước khác đã nói tới việc các nước này phải tự "lột xác" mình
như thế nào trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Phần lớn các tác
giả của những công trình này đã cho rằng, truyền thống, trước khi trở thành nền
tảng cho sự phát triển vẫn là thành lũy bảo thủ của những cái cũ, là đại diện
của quá khứ.
Chúng
ta còn nhớ, khi thực hiện mạnh mẽ công cuộc cải cách nước Nhật, Minh Trị Thiên
Hoàng đã quyết tâm hướng về phương Tây và học tập phương Tây như thế nào. Việc
cử sinh viên đi học phương Tây, cử những phái đoàn cấp cao đi nghiên cứu học tập
dài hạn tại phương Tây, việc cải cách kinh tế, xã hội và quân đội theo mô hình
của phương Tây cũng đã được chú ý đặc biệt.
Giải
pháp truyền thống cũng không chỉ có nghĩa là duy trì, mà còn là phát triển và
nâng cao ""sức mạnh"" của nhân tố này trong những điều kiện mới. Những công
trình nghiên cứu về lịch sử sự phát triển công nghiệp hóa ở Nhật Bản cũng đưa ra
những phát hiện khá lý thú. Chẳng hạn, khi thực hiện cuộc cải cách và mở cửa,
Minh Trị Thiên Hoàng đã không dựa nhiều vào giới thương nhân mà vào chính lực
lượng Samurai (Võ sĩ đạo) lực lượng vốn có truyền thống ghét cay ghét đắng thậm
chí khinh miệt sự kinh doanh buôn bán. ông đã biết loại bỏ dần những vấn đề tư
tưởng và tâm lý cũ kỹ, đưa một luồng suy nghĩ mới trên nền tảng lòng yêu nước và
sự trung thành vào giới Samurai và phát huy được thế mạnh của lực lượng này. ông
đã kết hợp được một cách thành công trong chính sách của mình cái đạo lý hết sức
độc đoán và cương quyết của Samurai với việc kinh doanh và công nghiệp hóa.
Về
điều này J.Mirochmerier đã đưa ra một nhận xét khá đúng đắn rằng: "Giới lãnh đạo
thời Minh Trị sớm thấy rằng, giải pháp tốt nhất cho các vấn đề cản trở công
nghiệp hóa nhanh chóng là sử dụng các nhân tài trước kia thuộc tầng lớp Samurai.
Giới lãnh đạo này hiểu rất rõ những phẩm chất vô giá vẫn còn như là một biểu
hiện đặc thù của tầng lớp này, chẳng hạn: Có học vấn, có ý thức trách nhiệm đối
với xã hội, có lòng tự trọng và sự tận tâm với nhiệm vụ". Và quả thực trên thực
tế, khi lực lượng Samurai kiên định và bảo thủ đã nhận thức được tính tất yếu
của sự thay đổi và công nghiệp hóa, họ đã trở thành lực lượng đứng hàng đầu
trong công cuộc cải cách, thúc đẩy sự cải cách tiến tới. Thật đáng ngạc nhiên
khi thấy các võ sĩ đạo đã trở thành những nhà kinh doanh chủ chốt của nước Nhật
công nghiệp hóa.
Các
nước công nghiệp mới ở châu Á như Hàn Quốc, Xin-ga-po..., đều đã rất chú trọng
tới việc phát huy những thế mạnh trong truyền thống của mình về văn hóa giáo
dục, tinh thần ham học hỏi, rèn luyện, những phương pháp tổ chức và quản lý xã
hội để hướng tới công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Một loạt các giá trị truyền
thống về lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, tính đoàn kết và nhân ái trong
tổ chức cộng đồng xã hội đã được quan tâm, phát huy và trở thành những phương
tiện mạnh mẽ để kiểm soát và điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Bên cạnh sự duy
trì các mối quan hệ gia đình truyền thống, các mối quan hệ gắn bó cá nhân với cá
nhân vì lợi ích chung cũng được nhấn mạnh và phát triển với những nội dung hiện
đại.
Kinh
nghiệm của các nước vốn có những gần gũi văn hóa với Việt Nam nói trên về việc
nghiên cứu và xử lý các giải pháp truyền thống, rõ ràng là những bài học quý giá
đối với chúng ta trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa./.
GS.
TS. Đặng Cảnh Khanh (QĐND)