Mở hội hay làm kinh tế?
Cuối năm,
dịp nông nhàn, khắp nơi lại đua nhau bàn chuyện tổ chức hội làng. Chẳng
đâu xa, ngôi đền nhỏ làng tôi mùa hội năm trước thu hơn hai tỷ đồng công
đức của khách thập phương. Chưa kể ngôi tam quan và đồ thờ một dòng họ
tiến cúng cũng trị giá ba tỷ nữa. Một năm mà có chừng ấy, đối với ngôi
làng nhỏ bé ở vùng quê nghèo này, có mà mơ. Vậy năm sau đương nhiên phải
mở hội to nữa, quảng bá rộng rãi hơn nữa để kéo khách về tiến cúng.
Ngoài ra, một lượng không nhỏ nhân dân trong làng, trong xã nhờ hội làng
mà kiếm thêm nhờ các dịch vụ ăn uống, trông giữ xe, bán hương hoa… cũng
có được một khoản thu nhập đáng kể.
Trên khắp đất nước ta với
những vùng, miền văn hoá đa dạng, trải dài của 54 dân tộc anh em, mỗi
nơi đều mang một sắc thái văn hoá độc đáo, thú vị. Trong đó có nhiều
ngôi đền, đình, chùa, miếu thờ, danh thắng, di tích có giá trị văn hóa,
lịch sử cấp quốc gia, được cả nước biết đến như quần thể di tích Hà Nội;
Đất Tổ Hùng Vương (Phú Thọ); Thành Huế; thánh địa Mỹ Sơn (Quảng Nam);
đền Bà Chúa Kho, chùa Dâu ở Bắc Ninh; đền Trần, Phủ Dày ở Nam Định; chùa
Bái Đính - Tràng An ở Ninh Bình…
Chưa bàn đến những giá trị tinh
thần, chỉ riêng về yếu tố kinh tế, mỗi lễ hội là một đòn bẩy cho đời
sống dân cư trong vùng, từ những khoản tiền khách thập phương công đức
đến những khoản thu từ các loại phí dịch vụ ăn theo...
Thế mới có
chuyện nhiều địa phương, nhiều ngôi đền, miếu thờ mới cố công “chạy”
cho nơi thờ tự của mình một vị tiền nhân có tên tuổi nào đó để gắn vào
di tích. Tên các vị càng to càng tốt, càng có công lớn với đất nước, dân
tộc thì di tích càng được nâng tầm, sẽ nhận được sự quan tâm nhiều hơn
từ các nhà hảo tâm… Đương nhiên, đó là yếu tố, hay là cái cớ để địa
phương tổ chức lễ, hội lớn hơn, kêu gọi được nhiều tiền hơn.
Như
vậy, yếu tố kinh tế ngày càng có ý nghĩa lớn trong việc tổ chức lễ hội
hiện nay. Nó đang dần bóp nghẹt những giá trị văn hoá, lịch sử, tâm linh
tốt đẹp của lễ hội. Nó đang ngày càng đặt ra những thắc mắc cần giải
đáp từ những nhà quản lý văn hoá.
Bài toán quản lý
Câu
“Phú quý sinh lễ nghĩa” không sai khi những năm gần đây nền kinh tế đất
nước có những bước phát triển mạnh mẽ. Đời sống nhân dân có bước tiến
đáng kể, nhất là sự xuất hiện của một bộ phận người giàu có mà dân gian
thường gọi là “đại gia” lại càng chăm chỉ đi lễ chùa.
Chỉ cần
nghe phong thanh một ngôi chùa, đền ở đâu đó linh thiêng, cầu gì được
nấy thì xa mấy, tốn kém mấy các đại gia này cũng đi bằng được. Của đáng
tội, sự xuất hiện của đại gia đối với một ngôi chùa, đền là một vinh
hạnh lớn. Không những các cụ giữ chùa, mà cả chức sắc địa phương cũng
tập trung để đón, thậm chí họ còn chuẩn bị cả những nghi lễ cao cấp nhất
để phục vụ đại gia.
Không phải đại gia đó thành tín hơn, lương
thiện hơn, hay giác ngộ cao hơn người dân bình thường đâu mà chỉ vì cái
ví của họ rủng rỉnh hơn người khác rất nhiều lần. Vài chục, thậm chí vài
trăm triệu với họ là … chuyện vặt, nếu họ vừa ý. Thế nên, tội gì không
tổ chức quảng bá lễ hội cho hoành tráng. Càng hoành tráng càng linh
thiêng, càng linh thiêng thì càng thu hút được khách thập phương, càng
đông khách thì tiền công đức càng vô tận.
Trở lại với chuyện làm
kinh tế trong lễ hội ngày nay. Một số nơi thờ tự thành lập cả một bộ
phận gọi là ban Kinh tài. Ban này chuyên đi kêu gọi, vận động quyên góp,
huy động tiền của để nâng cấp chùa và tổ chức lễ hội. Ấy vậy mà hàng
năm mỗi nơi cũng quyên được vài tỷ đồng. Số tiền này được dùng làm những
việc gì, làm như thế nào, chắc không ai biết ngoài một số người có liên
quan. Vả lại, ai lại lăn tăn thắc mắc gì chuyện đó, tiền vào cửa chùa
là tiền phúc, tiền đức, không ai dám ăn chặn đâu, bà con đều tin thế.
Nhưng
một số người “hiểu biết” hơn thì hăng hái, thậm chí phải “thi đấu” để
được có chân trong ban quản lý chùa. Các cụ thất, bát thập thì chẳng
nói, đến như các “cụ” mới vừa chớm năm mươi cũng đòi bằng được cái lễ
lên lão mới kể như có giấy phép vào làm ban quản lý chùa. Việc làng,
việc nước, cái phần đầu gà chia giữa đình ngày xưa quả thật là … xưa
rồi. Với nhiều người, cái phần chìm trong hòm kín, khoá trái có tên
“công đức” mới là chuyện lớn.
Mấu chốt của vấn đề là rất nhiều lễ
hội bây giờ gắn với chuyện làm kinh tế. Nhiều tiền thì tổ chức to, hoành
tráng hoặc ngược lại. Thế mới có chuyện ở Hoà Bình năm vừa rồi, sau khi
tổ chức lễ, hội tại ngôi chùa to nhất nhì thành phố xong thì phát sinh
mâu thuẫn. Sư trụ trì cho rằng tiền công đức, để trong các hòm công đức
trong chùa là của nhà chùa. Ban quản lý, do chính quyền lập ra thì coi
đó là tiền của ban. Vậy nên khi sư cho các tiểu cất hết tiền vào thùng
tôn, khoá kín vẫn bị người của ban quản lý sang khiêng cả thùng về cất
trong kho. Sư, tiểu thân cô, thế cô không làm gì được phát đơn kiện khắp
nơi. Lình xình mãi sư khiêng được thùng về thì ôi thôi số tiền chỉ còn
hơn chục triệu. Cuối cùng hòa cả làng, chỉ tiếc sau vụ đó con nhang đệ
tử đến chùa vãn hẳn. Ai lại tin sự linh thiêng khi những người coi sóc
nó lại hành động đầy mờ ám như thế.
Lại đặt ra câu hỏi, vậy ai là
người đứng ra quản lý, chăm sóc, tôn tạo đình chùa và tổ chức lễ hội.
Một số nơi có thành lập ban quản lý, gồm sư trụ trì, các bô lão và một
vài quan chức địa phương hoạt động rất quy củ. Nhưng nhiều ngôi chùa
hiện nay không làm được điều đó. Điển hình như tỉnh Bắc Giang, có hơn
trăm ngôi chùa cổ, ít nhất là di tích văn hoá cấp tỉnh nhưng lại quản lý
theo cấp làng, xã. Hầu hết mọi hoạt động đều do chính quyền đứng ra tổ
chức nhưng các nguồn thu thì lại do sư sãi trụ trì chùa quản lý. Hiển
nhiên, chưa có chế tài cho hoạt động này và người ta vẫn chỉ áp dụng
những quy chế, thiết chế văn hoá thiếu chặt chẽ để tổ chức, quản lý các
hoạt động mang tính tâm linh nhưng cũng mang lại không ít lợi lộc về
kinh tế cho một số cá nhân mà thôi.
Nói như vậy, dễ thấy hoạt động
lễ hội ngày nay ngoài yếu tố tâm linh còn mang nặng yếu tố kinh tế, yếu
tố vật chất. Theo quan điểm của người viết, đó là điều đương nhiên và
tất yếu trong đời sống xã hội hiện nay. Tuy nhiên, làm thế nào để yếu tố
kinh tế không trở thành yếu tố chủ đạo, chi phối hoạt động của lễ hội
mới là điều đáng bàn.
Mặc dù chưa phát triển đến mức đáng phải
báo động nhưng những dấu hiệu tiêu cực đã dần bộc lộ và cần phải kiểm
soát. Đó là trách nhiệm của những nhà làm văn hoá, của chính quyền và cả
những người có lòng hảo tâm công đức cho nơi thờ cúng tâm linh.
Lòng
hảo tâm không nên trở thành miếng mồi cho một số kẻ xấu lợi dụng, đồng
thời góp phần làm mất đi những giá trị tốt đẹp của văn hoá dân tộc.