Thứ Sáu, 20/9/2024
Tuyên truyền
Thứ Ba, 20/4/2010 22:0'(GMT+7)

Lênin - kiến trúc sư của mô hình xã hội chủ nghĩa

V.I.Lênin- kiến trúc sư của mô hình XHCN

V.I.Lênin- kiến trúc sư của mô hình XHCN

Về vai trò của nhận thức đối với hành động của con người, Mác có một so sánh giữa con ong và một người kĩ sư bình thường rằng bản năng của loài động vật có thể hơn con người ở độ khéo léo, song nó thua xa con người ở chỗ: đối với con người tư duy - nhận thức trước, sau đó mới là hành động. Nhận thức của con người vạch ra mô hình, viễn cảnh lộ trình… rồi sau đó mới hành động để hiện thực hóa. Theo đó tư duy về mô hình có ảnh hưởng sâu sắc đến hiện thực và hiệu quả hoạt động thực tiễn.

Mô hình phát triển xã hội có thể được coi là vấn đề xã hội lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Bản chất của nó là cách giải quyết hai mối quan hệ cơ bản giữa con người với tự nhiên và giữa con người với con người trong phát triển. Những nguyên tắc cơ bản mà các mô hình đều phải hướng tới là lao động, bình đẳng và phát triển toàn diện nhân cách con người trong mối quan hệ hài hòa với tự nhiên. Mỗi thời đại có một mô hình riêng được định hình thông qua việc giải quyết hai quan hệ trên.

CNXH là một mô hình mà nhân loại cần tới vì mục tiêu “phát triển nhanh, bền vững và nhân bản”. Theo C.Mác, bản chất triết học của mô hình này là: “CNCS như vậy với tính cách là chủ nghĩa tự nhiên hoàn bị, = chủ nghĩa nhân đạo, với tính cách là chủ nghĩa nhân đạo hoàn bị,= chủ nghĩa tự nhiên; nó là sự giải quyết thực sự mâu thuẫn giữa con người với tự nhiên, giữa con người và con người, là sự giải quyết thực sự cuộc tranh chấp giữa tồn tại và bản chất, giữa sự đối tượng hoá và sự tự khẳng định, giữa tự do và tất yếu, giữa cá thể và loài”[1] Mô hình ấy giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội để cho “Sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do và toàn diện của mọi người”...

Từ thực tiễn của cách mạng Tháng Mười và quá trình lãnh đạo xây dựng CNXH ở nước Nga xô viết, Lê nin đã có nhiều cống hiến lý luận về vấn đề này. Người chính là một kiến trúc sư của mô hình XHCN.

1. Lênin - người có nhiều cống hiến về mô hình XHCN.

1.1 Những quan niệm cơ bản của Lênin về mô hình XHCN.

Lênin đã chỉ rõ bản chất kinh tế xã hội mô hình này là việc “đưa ra được và thực hiện được một kiểu tổ chức xã hội về lao động cao hơn” CNTB. Đó là "Sự thay thế vĩ đại lao động nô lệ bằng lao động cho mình, bằng lao động tổ chức có quy củ, trên một quy mô rộng lớn trong phạm vi toàn quốc (và trong một chừng mực nào đó, trên quy mô quốc tế, toàn thế giới nữa)”[35,236][2] Sự thay thế đó được bắt đầu từ tiền đề là xác lập chế độ công hữu. Và quan trọng hơn, như một điều sống còn nhất với mô hình mới, là phát triển LLSX:“Một khi chiếm được chính quyền nhà nước, giai cấp vô sản có một lợi ích căn bản nhất, sống còn nhất là phải tăng số lượng sản phẩm, phải nâng cao theo những quy mô lớn sản xuất của xã hội” [44,422]

Theo Lê nin, mô hình mới được xây dựng bằng cách “tổ chức lao động theo một trình độ cao hơn...trên cơ sở vật chất của nền đại công nghiệp...nâng cao trình độ học vấn và văn hoá của quần chúng nhân dân...nâng cao kỉ luật của những người lao động, kĩ năng lao động khéo léo của họ, phải tăng thêm cường độ lao động và tổ chức tốt hơn” [36,217]; Bằng việc “tổ chức thi đua theo những nguyên tắc XHCN phải là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất có hiệu quả nhiều nhất của công cuộc cải tạo xã hội” [36,185] và “kiểm kê kiểm soát...là yêu cầu chủ yếu để xã hội cộng sản hoạt động được đều đặn” [36,325]

Lênin coi mô hình XHCN là thành quả sáng tạo của quần chúng: “CNXH sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân.” [34,64] Chính họ chứ không phải ai khác sẽ bằng kinh nghiệm của mình cụ thể hóa mô hình của CNXH. “Về cụ thể và trên thực tế con đường đó ra sao, thì kinh nghiệm của hàng triệu con người sẽ chỉ rõ, khi họ bắt tay vào hành động” [34,152-153]. Theo Lênin, CNXH là sự nghiệp sinh động và sáng tạo của hàng triệu quần chúng. Tính tích cực chính trị và sự sáng tạo ấy không chỉ tạo nên sự chuyển biến về chất “chuyển sang một kỉ luật lao động mới, tạo ra những điều kiện XHCN trong kinh tế và đời sống...những bước đầu thực sự của CNCS” [39,21-25] mà còn là những “giác quan” nhạy bén nhất với đời sống chính trị. Nó có khả năng phát hiện sớm những vấn đề, thiếu sót...

Phát triển dân chủ XHCN cũng là đặc trưng của mô hình mới: “Nước mạnh là nhờ ở sự giác ngộ của quần chúng. Nước mạnh là khi nào quần chúng biết rõ tất cả mọi cái, quần chúng có thể phán đoán được về mọi cái và đi vào hành động có ý thức” [35,23] và “Chỉ khi nào biểu hiện được đúng ý nguyện của nhân dân thì chúng ta mới có thể quản lí được. Nếu không, đảng cộng sản sẽ không lãnh đạo được giai cấp vô sản, giai cấp vô sản sẽ không lôi cuốn được quần chúng theo mình, và tất cả bộ máy sẽ tan rã” [45,134].

Mô hình mới còn là là quan hệ bình đẳng, đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc “CNXH thắng lợi nhất thiết phải thực hiện chế độ dân chủ hoàn toàn và do đó, không những làm cho các dân tộc hoàn toàn bình quyền với nhau mà còn thực hành quyền tự quyết của các dân tộc bị áp bức, tức là quyền tự do phân lập về mặt chính trị ” [27,323] và từ đó “xóa bỏ mọi trạng thái biệt lập giữa các dân tộc, không những làm cho các dân tộc gần gũi nhau, mà cũng còn nhằm thực hiện việc hợp nhất các dân tộc lại” [27,328]

Lênin cũng đề cao tính sinh động, sáng tạo khi hiện thực hóa mô hình XHCN. Chẳng hạn về vấn đề mô hình xây dựng CNXH, Lênin quan niệm “Những hình thức tổ chức xã hội mới” là đa dạng tùy theo sự quy định của thực tiễn ở mỗi đất nước. “Tất cả các dân tộc đều tiến tới CNXH không phải một cách hoàn toàn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào...” [31,160] quá trình xây dựng mô hình mới.

Mô hình XHCN, theo Lênin là có thể điều chỉnh tùy theo hoàn cảnh lịch sử thực tiễn và nhận thức của những người xây dựng CNXH. Do điều kiện lịch sử của nội chiến cách mạng, quá trình lãnh đạo xây dựng CNXH ở nước Nga, Lê nin cũng đã từng áp dụng mô hình cộng sản thời chiến (giai đoạn 1917 - 1921). Song khi nội chiến kết thúc, trước sự chuyển biến của tình hình, Người đã có nhiều điều chỉnh chiến lược. Chính sách kinh tế mới (NEP) của Lê nin chính là sự điều chỉnh chiến lược lớn trên nhiều lĩnh vực của nước Nga xô viết từ năm 1921 nhằm cải cách kinh tế - xã hội theo một mô hình mới, trên những “quan niệm về CNXH đã được thay đổi về căn bản”.

Từ nhận thức về đặc điểm của thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước Nga là “có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của CNTB và CNXH” Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở một nước tiểu nông lạc hậu, sản xuất hàng hóa và trao đổi trên cơ sở giá trị, quy luật cung cầu vẫn tồn tại bởi tính chất đan xen ấy. Lê nin xác định kết cấu của nền kinh tế là gồm “những thành phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội”. Người chỉ ra 5 thành phần kinh tế: 1/ kinh tế nông dân “có tính chất tự nhiên”. 2/ sản xuất hàng hoá nhỏ, “đại đa số nông dân”… 3/chủ nghĩa tư bản tư nhân. 4/ chủ nghĩa tư bản nhà nước. 5/ chủ nghĩa xã hội.

Xét một cách tổng quát, NEP chính là sự thực hiện những nguyên lý của chủ nghĩa Mác về cuộc cách mạng XHCN trong điều kiện của một nước tiểu nông, ở đó những quan hệ kinh tế tư sản tuy đã hình thành nhưng chưa đạt đến độ chín muồi để chiến thắng các quan hệ kinh tế cũ. Muốn thực hiện tư tưởng xoá bỏ chế độ tư hữu với tính cách là "chế độ sở hữu cổ truyền" không thể "tiến công trực diện", phải có cách làm khác. Và “tất cả sự khéo léo của chính sách là ở chỗ biết tính đến những nhiệm vụ đặc thù của từng bước quá độ đó” (40,129) Theo cách diễn đạt của V.I.Lê-nin, nhiệm vụ đặc thù đó bao hàm cả việc "thực hiện những bước lùi cần thiết", Bước lùi đó chính là việc thiết lập một hệ thống sở hữu hợp quy luật làm cơ sở cho các thành phần kinh tế còn tồn tại khách quan để giải phóng sức sản xuất của xã hội.

NEP không chỉ là một chính sách kinh tế mà còn bao gồm nhiều nội dung liên quan đến các lĩnh vực, chính trị - xã hội khác. Tiêu biểu là 5 nội dung lớn sau đây:

1) Thực hiện chế độ thu thuế, bãi bỏ chế độ trưng thu lương thực, cho phép tự do trao đổi, buôn bán, coi thương nghiệp là mắt xích chủ yếu, là hình thức cơ bản cho các mối liên hệ kinh tế giữa công nghiệp với nền nông nghiệp hàng hoá, giữa thành thị với nông thôn, và sự liên minh giai cấp về kinh tế giữa công nhân với nông dân. Để tận dụng hết những khả năng phát triển tiềm tàng của nông nghiệp và nông dân, Người nhấn mạnh: “Chúng ta phải để cho nông dân, với tư cách là người sản xuất nhỏ, có được một phạm vi tự do khá lớn.”(43,373). “Chủ nghĩa cá nhân của nông dân có đáng sợ với CNXH không?”, Lênin đã hỏi như vậy và Người trả lời: “Không”(43,459). Lênin còn cảnh báo rằng: “…tìm cách ngăn cấm, triệt để chặn đứng mọi sự phát triển của trao đổi tư nhân, không phải là quốc doanh, tức là của thương mại, tức là của CNTB, một sự phát triển không thể tránh được khi có hàng triệu người sản xuất nhỏ. Chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nào muốn áp dụng nó”(43,267) vì “hiện nay, sự trao đổi địa phương có một ý nghĩa quan trọng bậc nhất” (43,281)

2) Áp dụng những hình thức khác nhau của chủ nghĩa tư bản nhà nước: thực hiện chế độ tô nhượng, chế độ hợp tác, sử dụng chuyên gia tư sản, những kinh nghiệm quản lí, những thành tựu của văn minh nhân loại đạt được trong CNTB…coi đó là những mắt xích trung gian để xây dựng CNXH. Lênin từng đặt câu hỏi: “Liệu có thể kết hợp, liên hợp, phối hợp nhà nước Xô viết, nền chuyên chính vô sản, với chủ nghĩa tư bản nhà nước được không? Tất nhiên là được.” (43,268). Chắc chắn là có những cuộc đấu tranh khá gay gắt giữa Lênin với những người còn e dè việc áp dụng CNTB nhà nước. Người khẳng định: “Tô nhượng cũng là một hình thức đấu tranh, là sự tiếp tục đấu tranh giai cấp, dưới một hình thức khác, chứ tuyệt nhiên không phải là sự thay thế đấu tranh giai cấp bằng hòa bình giai cấp” (43,270)

3) Sử dụng các các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, thực hiện khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần đối với mọi người lao động, khai thác mọi nguồn lực để phát triển lực lượng sản xuất, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới.

4) Thực hiện kế hoạch điện khí hoá nước Nga, coi đó như một trong những điều kiện tiên quyết cho sự ra đời của chế độ XHCN…

5) Củng cố chính quyền Xô viết, tăng cường vai trò của quản lý, kết hợp chặt chẽ các biện pháp hành chính, tổ chức và kinh tế để “chống nạn quan liêu hoành hành chủ yếu ở trung ương” (43,282); thực hiện chế độ kiểm kê kiểm soát của nhà nước với đời sống kinh tế - xã hội, trên cơ sở liên minh kinh tế để tăng cường liên minh công nông về chính trị…

Với nội dung toàn diện như vậy, đặt trong bối cảnh nước Nga xôviết vào thời điểm năm 1921, NEP thực sự là một quyết sách chiến lược cơ bản mang tính cách mạng và sáng tạo, song về sách lược lại là một chính sách mềm dẻo và năng động. Sau hơn 3 năm thực hiện NEP, nước Nga Xô viết đã thoát khỏi khủng hoảng, thành quả của cách mạng được giữ vững, công cuộc xây dựng đất nước theo những yêu cầu của các quy luật khách quan mà NEP đã thể nghiệm thành công, được tiếp tục triển khai với tính cách là một chiến lược phát triển.

Ý nghĩa lý luận lớn của NEP là: thứ nhất chỉ ra những biện pháp hiện thực để xây dựng CNXH ở một nước chưa có nền sản xuất lớn TBCN: khẳng định tính thiết yếu của việc thực hiện các hình thức “quá độ gián tiếp”, những “biện pháp trung gian”, “quá độ đặc biệt” đối với một nước tiểu nông trong phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở thời kỳ quá độ lên CNXH.

Thứ hai, từ NEP, có một mô hình mới của CNXH hiện thực và qua thực tiễn, một quan niệm lý luận mới về mô hình và con đường đi lên CNXH đã được hình thành trong kho tàng kinh điển về CNXH khoa học. Rất nhiều luận cứ khoa học của công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã được NEP chỉ dẫn. Lý luận về CNXH có một bước tiến dài từ NEP.

Công lao to lớn ấy thuộc về Lê nin.

1.2 Lênin còn chỉ ra những khó khăn, thiếu sót; lường trước những căn bệnh sẽ phát sinh trong quá trình xây dựng mô hình XHCN.

Khó khăn, phức tạp vì đó là một quá trình văn hoá. CNXH là một mô hình mới song mang tính vừa vượt qua vừa kế thừa. Tính vượt qua mô hình TBCN là rõ nét, song nhiều lần Lênin đã khẳng định nguyên tắc kế thừa: bằng tiếp thu cơ sở vật chất kĩ thuật, bằng học tập những kinh nghiệm tổ chức quản lí của những nước tư bản phát triển cao, bằng việc sử dụng chuyên gia tư sản và bằng “chuyển trọng tâm của cuộc đấu tranh sang lĩnh vực kinh tế và văn hoá”; bằng việc nâng cao trình độ văn hoá, ý thức tự giác và kỉ luật xã hội (kỉ luật Đảng, pháp luật nhà nước, kỉ luật lao động công nghiệp...). Khó khăn còn là ở chỗ, tuy đã lỗi thời, nhưng mô hình TBCN vẫn có nhiều điểm cần được nhìn nhận (tuy nó “quan liêu nhưng là thứ quan liêu đổ mồ hôi, sôi nước mắt” của những người thạo công việc; tuy là người bóc lột nhưng nhà tư bản lại là người quản lí giỏi...v.v). Vì vậy, CNXH cần học tập những mặt tích cực, song không mù quáng mà phải biết vượt qua những giới hạn của mô hình TBCN.

Khó khăn phức tạp còn là ở chỗ: mô hình XHCN cần có một cái cốt vật chất song nước Nga và nhiều nước XHCN khác lại đang rất thiếu yếu tố này và hệ quả xã hội của nó là “đối với CNXH thì khó khăn chủ yếu là đảm bảo kỉ luật lao động”. Mô hình XHCN không phải từ trên trời rơi xuống mà là do con người lịch sử - cụ thể tạo nên. Đa số trong họ mang tâm lí tiểu nông với tính tự phát tiểu tư sản, với những tính toán tuy thực tế, song không còn phù hợp nữa, họ cần phải biết làm việc không chỉ cho mình mà cho cả “những người bà con xa” - tức là những người ở giai cấp, tầng lớp đang liên minh với mình để xây dựng xã hội mới.

Lênin cũng chỉ ra những căn bệnh sẽ nảy sinh và cách sửa chữa. Đó là các thứ bệnh quan liêu, nóng vội, chủ nghĩa hình thức, tự cao tự đại, dấu dốt, sợ sai và những tệ nạn ngay trong bộ máy nhà nước. “Theo tôi hiện giờ có ba kẻ thù chính đang đứng trước mỗi người đảng viên cộng sản... là: tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa... nạn mù chữ và... nạn hối lộ.” [44,217] Tác hại của nạn hối lộ là làm cho “không thể nói đến làm chính trị được vì mọi biện pháp đều sẽ lơ lửng trên không trung... không mang lại kết quả gì...chỉ có thể đưa đến kết quả xấu hơn...và không có điều kiện để có thể làm chính trị được” [44,217-218].

Cơ chế phát hiện những vấn đề này, theo Lênin là thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ: “thảo luận và giải quyết tập thể các vấn đề quản lí trong cơ quan xô viết phải có kèm theo một quy định về trách nhiệm hết sức rõ ràng của từng người trong số những người đảm nhiệm bất cứ chức vụ xô viết nào...từ nay tuyệt đối bắt buộc phải thi hành quy tắc nói trên” [36,192 -193]; Là thực hiện kiểm tra, kiểm sóat chặt chẽ, nghiêm túc; là việc “tìm ra những nhà tổ chức có tài trong nhân dân” [35,237]; Là để cho mỗi người đều có điều kiện tham gia vào quản lí nhà nước [37,509]; Là bám sát thực tiễn: “Hãy nghiên cứu nhiều hơn nữa những cái mà kinh nghiệm thực tế của chúng ta... đem lại...”[42,436].

Bằng quan niệm mới về CNXH thông qua NEP, Lênin đã làm giàu thêm nhiều nhận thức rất quan trọng về mô hình, con đường, lực lượng, tổ chức của quá trình xây dựng CNXH.

2. Tiếp tục hoàn thiện mô hình CNXH trong quá trình đổi mới

CNXH đã được hiện thực hóa thông qua nhiều mô hình thực tiễn là hiện tượng có tính quy luật. Mỗi mô hình có một sứ mệnh và qua đó, đóng góp cho lí luận những điều không thể có trong sách vở. Mô hình đầu tiên là công xã Pari, sau đó là mô hình Xô viết với hai giai đoạn phát triển: Cộng sản thời chiến và Chính sách kinh tế mới của Lê nin; Tiếp sau là mô hình kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp trong thời chiến và trong thời hòa bình của các nước XHCN. Và hôm nay, thông qua sự nghiệp đổi mới, cải cách, tính quy luật ấy đang được biểu hiện sinh động qua các mô hình phát triển theo định hướng XHCN của nhiều quốc gia. Logic vận động của các mô hình CNXH là càng về sau càng mang tính hiện thực hơn, hợp lí hơn tích lũy được thêm nhiều kinh nghiệm hơn, tự “lột xác” để có hoàn chỉnh hơn và do đó, có sức sống lâu dài hơn.

Mô hình CNXH ở Việt Nam đóng vai trò là “bản vẽ thiết kế” chế độ, là sự hoạch định đường lối, lộ trình, lực lượng, động lực và biện pháp…để xây dựng CNXH hiện thực. Tính đúng của nó, theo đó, trực tiếp ảnh hưởng nhiều mặt đến quá trình thực tiễn xây dựng CNXH. Khó khăn của thời kì trước 1986, thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của hơn 20 năm đổi mới đã xác nhận điều này

Thông qua sự nghiệp đổi mới một mô hình trên cơ sở cộng đồng xã hội đang dần được xác lập trên thực tiễn ở nhiều nước đang phát triển theo định hướng XHCN. Chế độ chính trị mà quyền làm chủ xã hội của nhân dân lao động đang được xây dựng; Nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; quản lí nhà nước điều tiết nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng XHCN đang được xác lập. Một xã hội lấy người lao động và những giá trị của lao động làm thước đo giá trị con người (chứ không phải sự giàu có do bóc lột) đang là hiện thực.

Cơ chế thị trường được vận dụng vào sự nghiệp xây dựng CNXH chính là sự kế thừa tư tưởng về NEP của Lênin. Cơ chế ấy một mặt tạo ra nhiều nguồn sinh lực cho quá trình phát triển kinh tế, một mặt đang là một giải pháp từ thực tiễn cho việc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội trong nền kinh tế thị trường của thế giới hiện đại. So sánh cùng một thời điểm hình thành kinh tế thị trường, mô hình TBCN trước đây đã để lại biết bao hậu quả xã hội tiêu cực, ngày nay, cũng trong thời điểm tương tự, thông qua cơ chế thị trường XHCN, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội đã bước đầu kết hợp được với nhau. Điều thú vị là trong quá trình cạnh tranh, tiếp biến văn hoá với nhau, hai mô hình TBCN và XHCN đã có những tác động qua lại. Trước đây, chính bản thân CNTB, trong cơn khủng hoảng những năm 20 - 30 (thế kỉ XX) đã từng vay mượn nhiều yếu tố của mô hình XHCN, nhờ đó mà đạt được những điều chỉnh để tiếp tục tồn tại.[3]

Đổi mới muốn thành công không chỉ bằng quyết tâm và ‘dũng khí của một đợt xung phong”, cái đầu tiên phải là cơ sở khoa học - lý luận cho đổi mới. “Lý luận mới giải quyết vấn đề bản chất” (Hồ Chí Minh). Bước vào đổi mới, thực tiễn bề bộn các vấn đề, đâu là khâu căn bản nhất - muốn trả lời câu hỏi này không thể thiếu tư duy lý luận. Đổi mới đã có rất nhiều quyết định mang tầm vóc cách mạng, song không hề xa rời nguyên lí của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chúng ta thấy lý thuyết hình thái kinh tế xã hội của Mác, lý luận về hàng hóa và trao đổi hàng hóa, chúng ta thấy lại giá trị của “bài học vỡ lòng” từ triết học Mác: thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lí… Chúng ta thấy lại sự “tái sinh” Chính sách kinh tế mới ở Việt Nam, lý luận của Lênin về Đảng, Nhà nước của giai cấp công nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội… Theo đó, đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.

Kế thừa tư tưởng của Lênin về NEP, Đổi mới đã tôn trọng các quy luật khách quan của các quan hệ sản xuất và trao đổi hàng hoá - tiền tệ trong nền kinh tế thị trường hiện đại, thực hiện và phát triển mạnh nền kinh tế thị trường nhiều thành phần định hướng XHCN. Chúng ta đã thừa nhận sự tồn tại và phát triển khách quan các thành phần với sự đan xen các loại hình sở hữu. Các thành phần kinh tế tư nhân và tư bản có vốn đầu tư nước ngoài được thừa nhận là những bộ phận của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và được tồn tại bình đẳng, lâu dài với thành phần kinh tế XHCN.

Mô hình CNXH ở Việt Nam hôm nay vẫn còn đang tiếp tục trên con đường, tìm tòi, hoàn thiện. Vẫn còn khá nhiều điều mà lý luận về CNXH ở Việt Nam cần tiếp tục giải quyết. Thực tiễn sự nghiệp đổi mới và nhận thức của Đảng ta đã chỉ ra rằng, còn khá nhiều bất cập, thiếu sót trong việc xử lý các mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển; giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, giữa đổi mới với ổn định và phát triển; giữa độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế…theo đó, chất lượng và quy mô, tiến độ của quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam vẫn còn bị nhiều ảnh hưởng tiêu cực.

Nhìn chung, thành tựu của đổi mới xác nhận rằng: “nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng sáng tỏ hơn. Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội XHCN và con đường đi lên CNXH đã hình thành trên những nét cơ bản”. Thực tế này cho thấy giá trị to lớn của mô hình XHCN mà Lênin là “kiến trúc sư” có nhiều công kiến tạo. Tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới và qua đó hoàn thiện mô hình CNXH ở Việt Nam cũng là cách thiết thực để chúng ta kỷ niệm lần thứ 140 ngày sinh người “kiến trúc sư” vĩ đại của lý luận CNXH khoa học.



(*) Tham luận tại Hội thảo quốc gia kỷ niệm 140 năm ngày sinh V.I.Lênin

[1] C. Mac - Ph.Ăngghen, toàn tập, NXB CTQG, H 2000 tập 42, tr.167.

[2] V.I.Lênin, toàn tập, tập 35, NXB.Tiến bộ M, 1977, tr 236; (số đầu trong [ ] chỉ tập, số sau chỉ trang của trích dẫn)

[3] D.X Lơvốp – Đi tìm học thuyết phát triển cho nước Nga. Thông tin những vấn đề lý luận (Tài liệu tham khảo phục vụ lãnh đạo), số 15, 8/2000


 

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất