Từ lịch sử phát triển ngành sử học, các nhà nghiên cứu có quan
điểm chung rằng: "không gì có thể thay thế tư liệu - không có chúng thì
không có lịch sử". Sử liệu tồn tại khách quan, độc lập đối với chủ thể
nhận thức; và trên cơ sở thông tin thu nhận được từ kết quả phân tích
sử liệu, nhà sử học phục dựng lịch sử. Trong một thời gian khá dài
trong sử học đã tồn tại quan niệm cho rằng, chỉ có nguồn sử liệu chữ
viết (thư tịch) mới có thể coi là nguồn sử liệu và là nguồn sử liệu có
giá trị, còn các nguồn sử liệu khác đều không đáng tin cậy. Quan niệm
này khá phổ biến trong trường phái sử học Thực chứng (positivisme), mà
đại diện điển hình là nhà sử học người Pháp Numa Denis Pustele De
Coulage (1830 - 1889) - người được mệnh danh là "kẻ sùng bái thư tịch",
khi ông tuân thủ và chỉ hành động theo một phương châm duy nhất: "Văn
bản, chỉ có văn bản, không có gì khác ngoài văn bản".
Nhưng nếu nghiên cứu như vậy thì lịch sử các dân tộc chưa có chữ
viết, hoặc những hình ảnh của thời kỳ tiền sử chưa có chữ viết sẽ không
thể tái tạo? Tuy nhiên, việc phục dựng được lịch sử của các dân tộc
chưa có chữ viết, những bức tranh thời tiền sử ở các khu vực (bằng
nhiều phương pháp khác nhau) là câu trả lời với quan niệm sùng bái sử
liệu chữ viết. Ðối với Việt Nam, có thể nói vấn đề khó khăn nhất khi
nghiên cứu lịch sử là tư liệu. Tư liệu lịch sử nước ta từ thế kỷ 15 trở
về trước cho đến nay còn lại rất ít và phân tán rải rác. Sự ra đời một
số nhận định sai lầm về lịch sử là có nguyên nhân từ việc thiếu sử
liệu. Những năm gần đây, nhiều vấn đề lịch sử, nhiều nhân vật lịch sử
được đánh giá lại với tinh thần cởi mở. Tuy nhiên, trong không khí học
thuật đổi mới đó đã xuất hiện một số luận điểm rất phi sử học, hoặc có
dấu hiệu lợi dụng diễn đàn của sử học...
Có tác giả bao biện cho việc Nguyễn Ánh cầu viện Tây phương với lập
luận: Trong lúc yếu thế, Nguyễn Ánh cần súng ống, tàu chiến, đã (ngẫu
nhiên) gặp được một số đoàn truyền giáo đi mở đạo hứa giúp. Lẽ tất
nhiên ông ta xem đây là một cơ hội, dù có thể là "một cái xấu cần
thiết" (?), "Việc đầu tiên và cấp bách Nguyễn Ánh cần làm là diệt được
quân Tây Sơn bằng bất kỳ phương tiện nào, chứ hoàn toàn không cố ý muốn
cầu thân với Pháp" (?), và đó là hành động mang tính "sách lược tình
huống"! Tác giả rút ra kết luận: Nói Nguyễn Ánh "cõng rắn cắn gà nhà"
là không đúng với thực tại lịch sử khách quan, cũng như nói Alêchxăng đơ
Rôt hay Bá Ða Lộc làm môi giới giữa Pháp với triều Nguyễn là những tên
thực dân phản động lại càng sai lầm về quan điểm lịch sử (?). Bao biện
như vậy, tác giả đã cố tình phủ nhận sự thật rằng khi cầu viện quân
Xiêm, quân Pháp, Nguyễn Ánh đã đặt quyền lợi của gia tộc, của bản thân
lên trên quyền lợi dân tộc, lên trên chủ quyền của đất nước và lên trên
cả danh dự của dân tộc.
Người xưa thường nói: "Thời thế tạo anh hùng". Thời thế, nói theo sử
học chính là "bối cảnh lịch sử" - điều mà khi tiếp cận bất kỳ một biến
cố, phong trào, học phái nào, người nghiên cứu đều phải xem xét kỹ
lưỡng. Bình luận về cá nhân trong lịch sử luôn phải đặt nhân vật đó
trong bối cảnh lịch sử của họ cùng mối tương tác với các sự kiện chi
phối bên ngoài. Lịch sử là cái đã diễn ra, cần nghiên cứu và tái hiện
có phương pháp, không thể suy đoán kiểu: nếu không có những gì xấu xa
của chủ nghĩa tư bản thế kỷ 19 thì không có C. Mác và chủ nghĩa Mác
xuất sắc; nếu không có thực dân Pháp xâm chiếm Việt Nam thì cũng không
có Phan Bội Châu hay Hồ Chí Minh với sự nghiệp lẫy lừng... Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 là sự kiện trọng đại, đánh đổ ách áp bức của thực
dân, phong kiến, mở ra kỷ nguyên độc lập và khẳng định trước thế giới
rằng dân tộc Việt Nam có quyền, có chỗ đứng ngang hàng với mọi dân tộc
khác trên thế giới. Vậy mà có người lại coi sự nghiệp giành độc lập của
nhân dân Việt Nam như một sự "ăn may" của Việt Minh trong "khoảng chân
không chính trị". Họ không coi Ngày 2-9 là ngày vinh quang, đánh dấu
việc thoát khỏi ách thuộc địa. Từ lòng thù hận, đối với họ, Ngày
2-9-1945 chỉ khai sinh một nhà nước cộng sản và mở đầu cho một giai đoạn
nội chiến kéo dài (!). Họ cố tình quên độc lập dân tộc là điều không
thể nhân nhượng. Sau gần một thế kỷ là một xứ thuộc địa, Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 là kết quả tất yếu từ nhận thức, hành động của dân
tộc Việt Nam; và sau quá trình đấu tranh kiên cường suốt hơn 15 năm với
vô vàn tấm gương hy sinh anh dũng, Ðảng Cộng sản là tổ chức chính trị
duy nhất có đủ thực lực để lãnh đạo nhân dân khi thời cơ đến đứng lên
giành độc lập. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và Ngày 2-9-1945 phải được
ghi nhận là một trong những sự kiện trọng đại trong lịch sử dân tộc.
Một số người lại lập luận rằng, cuộc cách mạng này là không cần thiết
(?), vì chủ nghĩa thực dân đã chết sau Chiến tranh thế giới thứ hai và
độc lập dân tộc ắt phải đến, dù có hay không có cách mạng, bởi đó là
khuynh hướng tất yếu của lịch sử nhân loại; bằng cớ là mọi quốc gia
muốn độc lập, đều đã có độc lập và hơn thế nữa, đa số các trường hợp
còn giành được độc lập trước và ít tốn kém hơn Việt Nam (!). Với mấy
người này, họ cố tình quên trước khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai
kết thúc, chính quyền nước Pháp quyết "khôi phục lại những quyền lợi ở
Ðông Dương". Quyết tâm này thể hiện qua hàng loạt các hành động quân sự
trong những năm 1945 - 1946. Trong thời đoạn đó hoàn toàn không có một
"cơ hội hòa bình bị bỏ lỡ", khi những người cầm quyền ở Pháp quyết đặt
lại ách cai trị của thực dân ở Ðông Dương bằng vũ lực. Ở thời điểm cuối
năm 1946, những cố gắng vãn hồi hòa bình đầy chính nghĩa của phía Việt
Nam, đặc biệt là của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuối cùng vẫn bị những
người điều hành chính sách của nước Pháp làm đổ vỡ, mặc dù lúc bấy giờ,
thời đại của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ thật sự đã kết thúc. Nhân dân
Việt Nam không muốn chiến tranh, "chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải
nhân nhượng", nhưng khi độc lập dân tộc bị đe dọa thì nhân dân Việt Nam
"thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ". Người Pháp đã không thấy điều đó và đã nhận thất
bại. Sau này người Mỹ cũng lặp lại sai lầm tương tự. Một vài người khi
đề cập tới hai cuộc kháng chiến chống xâm lược của nhân dân Việt Nam
trong thế kỷ 20 lại tập trung khai thác và nhấn mạnh một số biểu hiện
bên ngoài để khẳng định: Người trong một nước giết nhau trên một quy mô
lớn và trong một thời gian dài thì đó là nội chiến, dù có hay không có
sự can thiệp từ bên ngoài (?). Luận điểm này là cố tình đánh đồng tinh
thần yêu nước của nhân dân anh dũng đứng lên bảo vệ độc lập dân tộc,
bảo vệ các giá trị nhân văn với bộ phận xã hội đã tự biến mình thành
công cụ trong tay ngoại bang.
Tựu trung, chỉ có thể giải thích hiện tượng "quên" đó là: tư liệu
không được sử dụng để nghiên cứu toàn diện, khách quan theo phương pháp
sử học đúng đắn, mà nhằm phục vụ mục đích đen tối, lấp liếm để đánh
đồng chính nghĩa với phi nghĩa, đúng với sai, từ đó dẫn đến kết luận
phiến diện, xuyên tạc,...
Phương pháp lịch sử được sử dụng để nghiên cứu, trình bày một sự vật,
hiện tượng có thời gian xuất hiện, hình thành, và có các bước vận
động, phát triển,... để thấy được tính liên tục, từ đó rút ra các tính
chất, đặc điểm, xu hướng, quy luật vận động. Phương pháp lịch sử giúp
đi sâu tái dựng được cả không khí lịch sử, tâm lý, tình cảm của con
người trong những sự vật, hiện tượng tiêu biểu. Phương pháp lịch sử
không phải là sự liệt kê nhiều sự vật, hiện tượng, mà cần biết lựa chọn
sự vật, hiện tượng tiêu biểu, điển hình, là biểu hiện tập trung phản
ánh quy luật vận động của lịch sử. Nghiên cứu các sự kiện quan trọng,
không những phải làm sáng tỏ điều kiện hình thành và diễn biến của sự
kiện, mà còn phải đi sâu tìm hiểu làm rõ sắc thái riêng của từng sự
kiện, mô tả được tâm lý, tình cảm của quần chúng nhân dân và cả không
khí xã hội ở thời điểm sự kiện lịch sử diễn ra. Dựng lại sự kiện lịch
sử một cách sơ sài, giản đơn, sẽ sa vào lối phản ánh chung chung. Ðặc
biệt, nghiên cứu lịch sử phải tỉ mỉ, công phu, phải xem xét mọi mặt
biểu hiện, không được đơn giản, càng không được cắt xén làm cho lịch sử
trở nên đơn điệu, tẻ nhạt, thậm chí méo mó.
Sự thật lịch sử chỉ có một, nhưng lại có thể xuất hiện ý kiến bình
luận khác nhau. Bình luận có sức thuyết phục nhất là căn cứ vào sự thật
và vận dụng phương pháp lịch sử nhuần nhuyễn, nhận được sự đồng tình
của giới sử học và xã hội. Ðể đi tới sự thật lịch sử, không thể sử dụng
lối đánh giá cảm tính "yêu nên tốt, ghét nên xấu", không được xuất
phát từ quan điểm cá nhân, sử dụng tư liệu sơ sài, mà cần có quan điểm
khách quan, toàn diện, dựa trên cơ sở sử liệu đầy đủ, được thẩm định kỹ
lưỡng. Không ai có thể khẳng định mình có nhận thức lịch sử chính xác
nếu không sử dụng có hiệu quả các nguyên tắc của phương pháp lịch sử.
Nhận thức lịch sử có được sau một quá trình nhận thức, trong đó không
phải không có yếu tố chủ quan, phiến diện và sai lầm là một khả năng.
Tuy nhiên, có thể châm chước sai lầm do vô tình hay thiếu năng lực
nghiên cứu, nhưng không thể bỏ qua các sai lầm về phương pháp luận, mục
đích luận. Vì nếu sai lầm về phương pháp luận liên quan tới tư duy,
thì sai lầm từ mục đích luận sẽ dẫn tới hành vi vi phạm đạo đức khoa
học.