Chủ Nhật, 22/9/2024
Tuyên truyền
Thứ Tư, 31/12/2008 8:43'(GMT+7)

Mối quan hệ giữa cái phổ biến và cái đặc thù trong xây dựng CNXH qua thực tiễn Việt Nam

Biểu hiện đầu tiên của sự vận dụng này là sự xuất hiện các nhà tư tưởng macxit. Họ là những người đã “bản địa hoá” một lý luận mang tính thế giới vàothực tiễn từng nước. Gần đây, mối quan hệ này tiếp tục được triển khai qua thực tiễn cải cách và đổi mới và được thể hiện tập trung trong quan niệm của các Đảng cộng sản (ĐCS) về CNXH mang sắc thái đặc thù từng nước.
Song không phải mọi việc đều “thuận buồm, xuôi gió”. Hiện nay, tình huống có vấn đề là ở chỗ, cùng nhằm mục tiêu XHCN, nhưng quan niệm, cách thức, mô hình của từng nước lại có nhiều biểu hiện rất khác nhau. Có CNXH mang đặc sắc của từng nước, có CNXH mang dấu ấn của thời đại mới như “CNXH ở thế kỷ XXI”; quan điểm nhất nguyên về sự cầm quyền của đảng cộng sản (ĐCS) lại tồn tại cùng quan niệm “chấp chính” cùng nhiều đảng khác; xu hướng tăng cường và giữ vững bản chất GCCN của ĐCS lại đồng thời diễn ra với xu hướng nghiêng dần về “dân chủ xã hội” (Thuỵ Điển); lại có đảng xã hội dân chủ cánh tả tuyên bố liên danh với đảng cộng sản và theo xu hướng XHCN (Venezuela)…

Nhìn chung, những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của cải cách - đổi mới và những khuynh hướng lệch lạc cần điều chỉnh như là hai mặt của một vấn đề. Việc điều chỉnh liên quan tới quan điểmcách giải quyết trên thực tiễn mối quan hệ giữa cái phổ biến và cái đặc thù trong xây dựng CNXH.

1. Những quan điểm cơ bản khi giải quyết mối quan hệ này

Một là, quan điểm thực tiễn - tức là tiêu chí để đánh giá sự tiếp hợp giữa lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin vào từng nước trước tiên phải nhìn vào thực tiễn, hiệu quả xây dựng CNXH chứ không phải chỉ xem nó có giống với lý luận không. Quan điểm này giúp chúng ta tránh được bệnh kinh viện theo kiểu “gọt chân cho vừa giày”. Sản xuất hàng hoá, nền kinh tế nhiều thành phần, sử dụng cơ chế thị trường, đảm bảo hài hoà các lợi ích của người lao động, của tập thể và của xã hội…là những tìm tòi đóng góp mới của cải cách, đổi mới vào lý luận về CNXH. Nó đã được khẳng định là phù hợp với “mảnh đất hiện thực”.

Quan điểm thực tiễn này cũng cần được phân biệt với xu hướng thực dụng theo kiểu không cần phân biệt “mèo trắng hay mèo đen, miễn là bắt được chuột”. Những vấn đề mà qúa trình cải cách, đổi mới đang phải đối diện như bất bình đẳng xã hội tăng mạnh, phát triển không bền vững về môi trường; tăng trưởng nóng… đã và đang nhắc nhở rằng: nếu vi phạm có hệ thống vào những vấn đề có tính nguyên lí macxit thì chắc chắn là không chỉ hướng phát triển mà cả hiệu quả phát triển cũng sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực.

Hai là, quan điểm lịch sử cụ thể- tức là trong qúa trình đi lên CNXH “Phải biết áp dụng những nguyên tắc phổ biến, cơ bản của chủ nghĩa cộng sản vào đặc điểm của những mối quan hệ giữa các giai cấp và các Đảng, vào đặc điểm của sự phát triển khách quan hướng tới CNCS, những đặc điểm riêng của mỗi nước mà chúng ta phải biết nghiên cứu phát hiện và dự đoán.”[1]

Sự nghiệp xây dựng CNXH ở mỗi nước bị quy định bởi những hoàn cảnh đặc thù vì vậy cách thức, con đường thậm chí cả nội dung, lực lượng…có thể khác nhau. Nếu giáo điều và rập khuôn, cách mạng sẽ gặp nhiều khó khăn. Chẳng hạn, nếu hiểu thời kỳ quá độ lên CNXH là tiếp tục “đấu tranh giai cấp trong điều kiện mới với nội dung và biện pháp mới” một cách giáo điều, sẽ dẫn tới những cách làm mang tính “tả khuynh” thậm chí cực đoan mà “đại cách mạng văn hoá vô sản” là một ví dụ. Song cũng cần tránh khuynh hướng biệt phái do quá nhấn mạnh cái đặc thù, cái cụ thể từ đó xa rời những nguyên lý chung. Thực tiễn thế kỷ XX đã từng chứng kiến những “đột biến” của CNXH ở một số nước chính là do rơi vào khuynh hướng này.

Ba là, quan điểm phát triển; thực tiễn cải cách và đổi mới ở nhiều nước phát triển theo định hướng XHCN hiện nay đang tạo ra nhiều luận cứ thực tiễn và ở chừng mực nhất định, đã có một số cống hiến quan trọng vào lý luận CNXH. Đã có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, hiện nay chúng ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới của lý luận về CNXH. Đó là giai đoạn CNXH hiện thực đổi mới. Thực tiễn này đã làm phong phú thêm nhiều vấn đề về lý luận. Một số điều đã được khẳng định, chẳng hạn CNXH và kinh tế thị trường là không đối lập nhau, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN (hoặc kinh tế thị trường XHCN) là con đường để một số nước chưa qua CNTB tiến lên CNXH; rằng có thể vận dụng những quy luật của kinh tế thị trường để điều tiết nền kinh tế quốc dân bên cạnh vai trò quản lý của nhà nước XHCN... Bước đầu, có thể rút ra hai vấn đề có tính quy luật trong quá trình phát triển lý luận về CNXH ở giai đoạn này như sau:

Thứ nhất, cần phân định rõ tính chất công năng của những yếu tố vốn gắn liền với qúa trình phát triển của CNTB với những yếu tố thuộc về bản chất của nó. Chính sự phân biệt này đã góp phần làm nên tư duy mới về CNXH hiện thực. Trước đổi mới, những yếu tố như nền kinh tế gồm nhiều thành phần, kinh tế thị trường, sản xuất trao đổi hàng hoá trên cơ sở giá trị; nhà nước pháp quyền…từng được cho rằng đó là các yếu tố của CNTB và CNXH là phải làm khác đi. Vì vậy mà CNXH trước đổi mới dễ lâm vào trạng thái xơ cứng, biệt phái với quá trình phát triển của nhân loại. Mặt khác, cũng cần phân biệt rõ những yếu tố thuộc về bản chất của CNTB, để không lầm lẫn, chệch hướng. Chẳng hạn: vai trò chủ đạo của quan hệ sản xuất TBCN, chế độ bóc lột, nhà nước tư sản, đa nguyên chính trị…

Thứ hai, qúa trình phát triển bổ sung lý luận CNXH thường bắt đầu từ những tín hiệu mang tính chất đặt vấn đề của thực tiễn (chẳng hạn sự khủng hoảng, trì trệ); Tín hiệu đó được Đảng, Nhà nước tiếp nhận và chỉ đạo một số thể nghiệm trên thực tiễn, sau đó, lý luận tiếp tục tổng kết thông qua hai kênh: 1 - Thực tiễn trong nước và xu thế thời đại; 2 - Dùng lý luận macxit soi chiếu vào thực tiễn để vừa điều chỉnh vừa bổ xung và dần hình thành đường lối cải cách, đổi mới theo định hướng XHCN.

Cũng khó có thể phân biệt rõ đâu là thành tựu thực tiễn đâu là thành tựu lý luận ở thời kỳ đổi mới, vì trên thực tế, lý luận vừa đóng vai trò đi trước dẫn dắt, lại vừa là sản phẩm của tổng kết, đúc rút ; thực tiễn vừa đặt vấn đề vừa thúc đẩy và đòi hỏi lý luận (nhất là đường lối, chính sách) phải chuyển biến để đáp ứng nhu cầu. Song có thể nhận thấy rằng, từ giai đoạn đặt nền móng của C.Mác và Ph.Ăngghen đến giai đoạn của V.I. Lênin và giai đoạn cải cách, đổi mới hôm nay, CNXH - cả thực tiễn và lý luận đã có bước tiến rất dài. Nó vẫn là CNXH nhưng đang được sinh động hoá qua thực tiễn nhiều nước. Cái phổ biến đã hoá thân và tiếp hợp được với cái đặc thù từ thái độ trung thành và sáng tạo khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin.

2. Về mối quan hệ giữa cái phổ biến và cái đặc thù trong qúa trình vận dụng lý luận CNXH vào thực tiễn Việt Nam hiện nay .

Những thành tựu cần được ghi nhận

- Cái đặc thù dần được nhận thức rõ, được tôn trọng và khi phát huy tác dụng thì làm rõ cái phổ biến; ở mức độ nhất định, cái đặc thù đang dần trở thành một bộ phận của cái phổ biến.

Tính dần từng bước trong nhận thức và hành động có thể thấy rõ thông qua qúa trình đổi mới tư duy về kinh tế thị trường. Xét về thời gian, chúng ta đã đổi mới qua nhiều bước. Có tác giả phân thành từng bước như sau. Bước 1: Thừa nhận cơ chế thị trường nhưng không coi nền kinh tế Việt Nam lúc ấy là kinh tế thị trường. Đại hội VII (1991) đã xác định nền kinh tế của ta là “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước”. Bước 2: Coi kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của CNTB, không đối lập với CNXH. Gần cuối nhiệm kỳ Đại hội VII, tại một nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác lý luận đã nhận định: “Thị trường và kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của CNTB mà là thành tựu chung của văn minh nhân loại”. Đại hội VIII (1996) chủ trương: “Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN”. Bước 3: Coi kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ. Đại hội IX của Đảng (2001)ghi rừ: Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Bước 4: Gắn kinh tế thị trường của nước ta với nền kinh tế toàn cầu, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và đầy đủ hơn. Đại hội X (2006) chủ trương: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN” và “Tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”[2]. Cái phổ biến được làm rõ ở đây là nhận rõ tư tưởng của Mác: kinh tế hàng hoá - thị trường là “một bước tiến vĩ đại”, là quy luật phát triển của sản xuất. Cái đặc thù được làm rõ từng bước trên thực tiễn và chín muồi dần trong tư duy chứ không phải ngay lập tức đã là kinh tế thị trường định hướng XHCN như nhận thức hôm nay.

Kinh tế thị trường trước đây được coi như một trường hợp đặc thù trong qúa trình xây dựng XHCN, qua sự kiểm chứng của thực tiễn đã được nhận thức lại và hiện đang trở thành quy luật phổ biến ở nhiều nước dưới các quan niệm “kinh tế thị trường XHCN” hoặc “kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Đảng ta đã khẳng định: “Để đi lên chủ nghĩa xã hội chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”[3] Với quan niệm này, kinh tế thị trường đã trở thành một trong những công cụ để xây dựng CNXH. Như vậy, ở Việt Nam cái đặc thù (qua trường hợp đổi mới tư duy kinh tế) đã tiếp hợp được với cái phổ biến (quy luật phát triển LLSX, qua đó tạo cơ sở vật chất cho CNXH). Nó cũng bắt đầu lan toả sang nhiều lĩnh vực khác: “phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác thông qua phúc lợi xã hội”; “Tách chức năng quản lý hành chính của nhà nước khỏi chức năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp”…

- Cái phổ biến thể hiện ra qua các trường hợp đặc thù. Nó có xu hướng sinh động hoá về biểu hiện nhưng luôn tự khẳng định vai trò quy luật, nguyên lí của mình khi bị vi phạm.

So với trước khi tiến hành đổi mới, cái phổ biến đã sinh động hơn về sắc thái và lĩnh vực biểu hiện; song nhìn xa và sâu hơn nữa thì chính những sắc thái ấy lại chính là sự trở lại và vận dụng sáng tạo những nguyên lí gốc. Chúng ta đã từng tự phê phán về quan điểm xơ cứng quá tách rời siêu hình sự phát triển và tác động qua lại giữa CNTB và CNXH. Đổi mới đã bước đầu khắc phục những lệch lạc trên. Điển hình là quan điểm về bỏ qua những gì và tiếp thu những gì của CNTB mà Đại hội IX đã nêu[4]. Nhưng nhìn thật kỹ thì đó lại là những nguyên lý mà Lênin đã nêu lên từ chính sách “kinh tế mới” (NEP). Người đã từng nhấn mạnh tới việc người cộng sản phải biết học tập cách quản lý của các T’rơt của Mỹ, đường sắt của Đức - Phổ; rằng người cộng sản cũng phải biết học buôn bán, và phải rèn luyện “bản lĩnh của một thương nhân thông minh và có học” …

Cái phổ biến ở đây chính là tính hướng đích XHCN, là những tính chất XHCN của các hiện tượng cụ thể. Trong qúa trình đổi mới, nhiều lần những nguyên tắc, nguyên lí của CNXH khoa học đã được Đảng ta nhấn mạnh. Chẳng hạn nguyên tắc “Đổi mới trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”; “Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng QHSX theo định hướng XHCN là thúc đẩy phát triển LLSX, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội”; “Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển LLSX phát triển nền kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển LLSX hiện đại gắn liền với xây dựng QHSX mới phù hợp trên ba mặt sở hữu quản lí và phân phối”…

- Mối quan hệ giữa cái phổ biến và cái đặc thù trong qúa trình đổi mới bước đầu đã được nhận thức và xử lí tương đối hài hoà. Chúng luôn gắn bó với nhau, tham gia và chuyển hoá thâm nhập vào nhau.

Sự hài hoà giữa cái phổ biến và cái đặc thù trong xây dựng CNXH ở Việt Nam thời kỳ đổi mới là một qúa trình liên tục điều chỉnh, được định hướng, vừa tôn trọng hiện thực khách quan lại vừa thể hiện rõ vai trò chủ động, sáng tạo.

Thứ tự ưu tiên dường như có sự phân biệt song thực ra, cái phổ biến và cái đặc thù luôn gắn bó với nhau. Thời kỳ đầu của tìm tòi đổi mới, cơ sở lý luận vẫn là những nguyên lí của CNXH khoa học, nhưng cái đặc thù của thực tiễn Việt Nam được nhấn mạnh như một sự khẳng định quyết tâm vượt thoát khỏi nếp tư duy bị ảnh hưởng bởi bảo thủ và giáo điều. Tình thế và bối cảnh thế giới vào cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX vừa đặt vấn đề buộc cách mạng “phải tự cứu mình trước khi trời cứu” (Cố TBT Nguyễn Văn Linh) tức là phát huy tối đa cái nội lực, khả năng tư duy trên mảnh đất hiện thực Việt Nam. Nó khuyến khích những nguồn năng lượng mới từ sáng tạo, “bung ra”, “đột phá”… Đó chính là điều kiện thuận lợi và cũng là tiền đề khách quan để ưu tiên cho qúa trình nhận thức đúng cái đặc thù của qúa trình xây dựng CNXH ở Việt Nam.

Khi đổi mới đã qua một chặng đường và dần đi vào chiều sâu thì tư duy của chúng ta, theo đúng quy luật, lại phải trả lời cho được câu hỏi cơ bản nhất: CNXH ở Việt Nam là gì, nó có mối liên hệ phổ biến nào với quan niệm về CNXH của Chủ nghĩa Mác - Lênin? Có nghĩa là cái phổ biến, tính quy luật và tính nguyên lý chưa bao giờ tách rời khỏi những trường hợp đặc thù. Chỉ khi nào xác định rõ và đúng cái phổ biến ấy thì những tìm tòi, đổi mới hay việc xác định những con đường cách thức đặc thù đi lên CNXH mới mang đủ ý nghĩa sáng tạo của nó. Do đó, khi nhìn lại từng chặng của đổi mới, vào những thời điểm quan trọng, tư duy lý luận của Đảng ta cùng với trí tuệ của cả dân tộc lại hướng quan tâm về những đặc trưng của CNXH ở Việt Nam. Cương lĩnh 1991 và Đại hội lần thứ X (năm 2006) chính là những thời điểm như vậy. Việc xây dựng và dần hoàn thiện quan niệm về xã hội XHCN ở Việt Nam rõ ràng là thành quả của sự tiếp hợp giữa cái đặc thù với cái phổ biến qua hàng chục năm tìm tòi trên thực tiễn và tổng kết lý luận.

Một số lệch lạc, thiếu sót cần được điều chỉnh.

Do quá nhấn mạnh cái đặc thù mà quên mất tính phổ biến của quy luật xây dựng CNXH, một số người đang tách rời siêu hình cách thức phát triển và mục tiêu XHCN. Họ cho rằng, kinh tế thị trường (KTTT) thì không thể gắn với định hướng xã hội chủ nghĩa, rằng tư hữu là động lực của phát triển… Họ không thấy rằng, KTTT trong đời sống hiện thực rất khác nhau về mô hình, cách thức biểu hiện. Nhiều nước với mô hình kinh tế thị trường xã hội đã có thể kìm hãm được nhiều mặt trái, tính tiêu cực của nó. Hoặc chính những nước theo mô hình “cạnh tranh hoàn hảo”, đề cao lý thuyết về “chủ nghĩa tự do mới” như Hoa kỳ, vai trò điều tiết của nhà nước vẫn là rất lớn, đặc biệt là trong những trường hợp khủng hoảng, suy thoái. Sự can thiệp sâu của nhà nước Hoa kỳ trong việc cứu trợ, giải quyết các vấn đề mà khủng hoảng tài chính đặt ra trong thời gian gần đây đã xác định điều này.

Trường hợp Việt Nam không phải là ngoại lệ, chúng ta đang xây dựng cơ chế thị trường định hướng XHCN, chưa thể ngay lập tức có ngay một thiết chế có được công năng hoàn hảo, do đó, những trục trặc, bất cập là lẽ dễ hiểu. Song không vì thế mà coi KTTT và CNXH là đối lập nhau. Với chúng ta KTTT là công cụ để xây dựng xã hội mới chứ không phải là mục đích; chấp nhận một số quy luật và thông lệ của nó để hội nhập kinh tế chứ không hoà tan vào thế giới tư bản. Đó là những điều cần khẳng định. Mặt khác cũng phải thấy được những giới hạn của kinh tế thị trường để khẳng định vai trò của định hướng XHCN. Có nhiều điều bản thân KTTT đã bất lực: chẳng hạn, nó không thể là công cụ để kiến tạo nên công bằng xã hội, nó bất lực khi phải tạo ra cơ hội đồng đều cho sự phát triển với mọi vùng miền, giai tầng; nó không thể giải quyết được ở tầm vĩ mô vấn đề nhân lực cho CNH, HĐH; nó không thể tập trung nguồn lực để giải quyết vấn đề cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội, nó không thể khống chế được những tiêu cực của lối làm ăn phi pháp…

Một biểu hiện khác, gần đây, có người cố tình nêu cao cái dân tộc và hạ thấp vấn đề giai cấp, đòi hỏi thậm vô lí theo kiểu “phải vượt lên cái bóng của chính mình” - ám chỉ rằng phải vượt thoát tư duy giai cấp để tập trung cho phát triển quốc gia - dân tộc; tách rời Đảng ra khỏi dân tộc theo kiểu so sánh số lượng đơn giản (kiểu như so 3 triệu đảng viên và 85 triệu dân…); rằng “đã đến lúc phải giải thể ý thức hệ trong qúa trình phát triển”…Những quan niệm kiểu này về thực chất là tách rời siêu hình lợi ích dân tộc khỏi lập trường và lợi ích của GCCN.

Tính giai cấp trong qúa trình phát triển hiện đại vẫn rất rõ ràng, nó thể hiện ra ở khả năng chi phối của luật pháp nhà nước, công pháp quốc tế (hiện còn mang đậm tính chất tư sản) với mọi lĩnh vực mà các quốc gia – dân tộc có tham gia. Lợi ích của giai cấp vẫn là yếu tố sâu xa và quyết định nhất đối với mọi quan hệ. Ai không thấy điều này thì quả thật là ngây thơ hoặc thiển cận. Quốc hội và chính phủ Hoa Kỳ có thể cấm vận hoặc chấp nhận PNTR cho một quốc gia nào đó; nhà nước Anh và vấn đề Ai len; chính phủ Pháp và vấn đề lao động… tất cả đều là sự thể hiện ý chí và lợi ích của giai cấp tư sản cầm quyền ở mỗi nước. Trước tiên họ vì GCTS, sau đó mới vì quốc gia và dân tộc của mình. Đó là thực tế hiển nhiên.

GCCN Việt Nam và Đảng CSVN là một bộ phận máu thịt của dân tộc, lợi ích và lập trường của GCCN về cơ bản là thống nhất với lợi ích của dân tộc. Từ trước đến nay và mãi về sau, đó là lập trường của GCCN và ĐCS Việt Nam. Tách rời lợi ích của GCCN với lợi ích dân tộc Việt Nam là âm mưu thâm hiểm của “diễn biến hoà bình” đã và đang bị vạch trần.

Hiện tượng giáo điều mới cũng đáng chú ý. Biến cái đặc thù của một trường hợp thành cái phổ biến với nhiều quốc gia là biểu hiện căn bệnh này trong một số tư duy. Trước đây, hiện tượng giáo điều rập khuôn đó làm hệ thống XHCN gặp nhiều khó khăn và là bài học kinh nghiệm luôn cần được nhắc nhở. Hiện nay, hai nước Trung Quốc và Việt Nam có nhiều điểm tương đồng về chế độ chính trị, bối cảnh kinh tế - xã hội. Trung Quốc lại là nước đi trước trong cải cách có nhiều kinh nghiệm có thể phổ biến, song cần nhận rõ những nét đặc thù khi kế thừa. Chẳng hạn, có thật lúc nào, chỗ nào cũng “ly nông bất ly hương” khi mà 70% dân cư Việt Nam sống tập trung ở đồng bằng? Nếu làm như vậy, đến khi nào mới chủ động điều chỉnh được mật độ dân cư, nguồn nhân lực cho phát triển trong một đất nước dân đông, đất chật mà lại phân bổ không đều? Thủ tướng Chu Dung Cơ từng nói, đại ý: Trung Quốc có 1,3 tỷ dân, mỗi vấn đề dù nhỏ cũng có khả năng nhân ảnh hưởng lên nhiều lần, mỗi thành quả dù là lớn song khi chia ra thì vẫn là nhỏ về hiệu quả. Do đó, các vấn đề mà Việt Nam phải đối mặt khi tiến hành cải cách so với Trung Quốc có thể khác cả về tính chất và quy mụ. Có thể kế thừa kinh nghiệm nhưng cần sàng lọc những cái không phù hợp, hoặc đã lạc hậu về thời gian.

Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp nối truyền thống tư duy sáng tạo, độc lập và tự chủ chính là phương châm để giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa cái phổ biến và cái đặc thù trong xây dựng CNXH ở Việt Nam. /.
TS. Nguyễn An Ninh
 Viện CNXH khoa học, Học viện Chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh



[1] V.I.Lênin Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến bộ M. 1978, tr. 93

[2] Xem thêm: Hà Đăng – Kinh tế thị trường qua các bước đổi mới tư duy, T/C Cộng sản , 4- 2007

[3] Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB CTQG, Hà nội – 2006, tr. 69.

[4] Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB CTQG, Hà nội – 2001, tr.21

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất