Thứ Năm, 9/5/2024
Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống
Thứ Tư, 6/12/2023 10:32'(GMT+7)

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước đối với Quân đội

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương gặp mặt các đại biểu điển hình tiên tiến toàn quốc trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh giai đoạn 2009 - 2019 tại Trụ sở Trung ương Đảng, ngày 19/12/2019. (Ảnh: qdnd.vn)

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương gặp mặt các đại biểu điển hình tiên tiến toàn quốc trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh giai đoạn 2009 - 2019 tại Trụ sở Trung ương Đảng, ngày 19/12/2019. (Ảnh: qdnd.vn)

VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI QUÂN ĐỘI

Trong các nhiệm kỳ gần đây, Đảng ta thường xuyên nhấn mạnh đến công tác đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Văn kiện Đại hội XIII xác định tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng trong điều kiện mới là một trong mười nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng.

Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương về “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới” chỉ rõ: “Đẩy mạnh đổi mới, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng; đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tổ chức, cán bộ; đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động; phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; đồng thời, đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới phong cách lãnh đạo, phương pháp công tác, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở”. Trong đó, Nhà nước cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng bằng Hiến pháp và pháp luật.

Quân đội là một tổ chức trong hệ thống chính trị, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước. Tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với Quân đội là vấn đề có tính nguyên tắc, đáp ứng yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới.

Quản lý nhà nước đối với Quân đội là nội dung trọng yếu của công tác quản lý nói chung, quản lý nhà nước về quốc phòng nói riêng. Điều 66, Hiến pháp năm 2013 hiến định: “Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng”. Theo đó, bao gồm các nội dung: Giáo dục quốc phòng, an ninh cho toàn dân; xây dựng công nghiệp quốc phòng; bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang, kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa - xã hội, kinh tế, văn hóa - xã hội với quốc phòng, an ninh; thực hiện chính sách hậu phương Quân đội; bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ, công nhân, viên chức quốc phòng phù hợp với tính chất hoạt động của Quân đội...

Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Thàng Tín (xã Pố Lồ, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang) giúp đồng bào thu hoạch lúa_Ảnh: TTXVN

Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Thàng Tín (xã Pố Lồ, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang) giúp đồng bào thu hoạch lúa_Ảnh: TTXVN

Công tác quản lý nhà nước đối với Quân đội phải đảm bảo các yêu cầu: 1) Nắm vững bản chất chính trị, bản chất giai cấp của quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh. 2) Phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; phải luôn quán triệt, cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng trong toàn bộ quá trình quản lý nhà nước đối với Quân đội. 3) Phải thường xuyên kết hợp chặt chẽ với quản lý các mặt, các lĩnh vực khác của xã hội. 4) Phải nhằm mục tiêu giữ vững hòa bình, ổn định trên mọi lĩnh vực, bảo đảm cho đất nước không bị bất ngờ trong mọi tình huống, làm thất bại mọi âm mưu phá hoại và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược của các thế lực thù địch đối với nước ta. 5) Phải thực hiện trên cơ sở luật pháp, kế hoạch, chính sách thống nhất; có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng ở từng cấp, từng ngành, từng địa phương.

Trong thời kỳ đổi mới, công tác quản lý nhà nước đối với Quân đội luôn được Đảng, Nhà nước, cả hệ thống chính trị quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đạt được những kết quả to lớn, góp phần quan trọng trong xây dựng Quân đội vững mạnh, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ. Nhà nước đã ban hành, củng cố, hoàn thiện hệ thống pháp luật, văn bản, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức từ Trung ương đến địa phương về quốc phòng, an ninh nói chung, xây dựng Quân đội nói riêng. Hệ thống tổ chức trong Quân đội từ Bộ Quốc phòng đến đơn vị cơ sở không ngừng được củng cố, kiện toàn theo hướng tinh, gọn, mạnh, đặc biệt là việc tổ chức biên chế, xây dựng lực lượng. Đội ngũ cán bộ các cấp trong Quân đội phát huy tốt vai trò, trách nhiệm, thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ, thường xuyên được kiện toàn, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất, năng lực, góp phần to lớn trong giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội cụ Hồ” trong mọi tình huống. Hệ thống tổ chức Đảng trong Quân đội thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, phát huy tốt vai trò trong xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh, tiêu biểu, đơn vị vững mạnh toàn diện. Những kết quả đó không những đã góp phần xây dựng Quân đội vững mạnh về mọi mặt, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc mà còn đáp ứng yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội trong tình hình mới.

Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước đối với Quân đội cũng còn những bất cập, hạn chế cần phải khắc phục. Đó là việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quốc phòng, an ninh, hệ thống luật về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, dân quân tự vệ... chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn. Việc củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức, biên chế trong Quân đội còn bất cập, tiến độ có lúc chưa đáp ứng với yêu cầu đặt ra. Một số tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên trong Quân đội còn có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm nguyên tắc sinh hoạt Đảng, pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội, ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín, phẩm chất cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”.

TIẾP TỤC TRIỂN KHAI ĐỒNG BỘ, KHOA HỌC, CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ CÁC GIẢI PHÁP

Trong tình hình mới, để phát huy hơn nữa vai trò quản lý nhà nước đối với Quân đội, đáp ứng yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, cần chú trọng thực hiện đồng bộ, khoa học, chất lượng, hiệu quả các giải pháp sau:

Thứ nhất, luôn kiên định và nắm vững nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội để cụ thể hóa bằng pháp luật.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong những giai đoạn cụ thể, nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội có sự khác nhau về cách thể hiện tên gọi, như: “Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện”, “Đảng lãnh đạo tuyệt đối, tập trung, thống nhất về mọi mặt”, “Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt”. Tuy nhiên, tất cả những cách gọi đó đều có sự nhất quán cao, đó là: Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội. Một quy luật bất biến trong xây dựng và phát triển Quân đội ta, đó là ở đâu có tổ chức và hoạt động của Quân đội thì ở đó phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong mọi điều kiện, hoàn cảnh phải luôn kiên định giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội. Vai trò lãnh đạo của Đảng là tuyệt đối và Đảng ta không bao giờ phân chia sự lãnh đạo đó cho bất kỳ ai, bất kỳ tổ chức lực lượng chính trị nào khác. Đảng lãnh đạo Quân đội một cách trực tiếp và toàn diện về chính trị, tư tưởng, tổ chức, trên mọi nhiệm vụ. Đây chính là nhân tố quy định sự trưởng thành và chiến thắng của Quân đội trong suốt gần 80 năm qua. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đốì, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nưóc đối với Quân đội nhân dân”(1).

Thứ hai, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước đối với Quân đội về mọi mặt.

Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Quan tâm chăm lo thực hiện tốt chính sách đối với lực lượng vũ trang và chính sách hậu phương Quân đội, Công an. Tiếp tục đối mới cơ chế, chính sách, nâng cao chất lượng thu hút, đào tạo nhân tài, nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”(2), đồng thời “bổ sung, hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách về quốc phòng, an ninh và liên quan đến quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới. Chủ động, tăng cường hợp tác và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế về quốc phòng, an ninh”(3). Đặt trong mối quan hệ với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, việc bổ sung hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách tạo ra động lực cống hiến đối với cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội là phù hợp với đặc thù của hoạt động quân sự, quốc phòng; là yêu cầu khách quan, góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Nhà nước quản lý tập trung, thống nhất Quân đội trên cơ sở thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng bằng luật pháp, đồng thời, không ngừng cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Do đó, cùng với việc hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách đối với lĩnh vực quốc phòng, an ninh cần nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Trong đó, cần phát huy vai trò của Nhà nước trong đầu tư ngân sách xây dựng cơ sở hạ tầng, sản xuất, mua sắm vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại góp phần xây dựng Quân đội nhân dân luôn vững mạnh, nâng cao sức mạnh chiến đấu tổng hợp. Trên cơ sở đó, Quân đội có điều kiện hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.

Một trong những nội dung quan trọng, đột phá trong nâng cao chất lượng, hiệu lực quản lý nhà nước đối với Quân đội là cải cách hành chính. Cải cách hành chính nhằm làm cho bộ máy nhà nước trên lĩnh vực quốc phòng hoạt động ngày càng hiệu quả là công tác có tầm quan trọng đặc biệt. Mục tiêu của cải cách hành chính là xây dựng hệ thống hành chính và quản lý hành chính nhà nước về quốc phòng thông suốt, có đủ quyền lực, năng lực, hiệu quả với 3 nội dung chủ yếu là cải cách thể chế của nền hành chính; chấn chỉnh tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.

Cơ cấu tổ chức quản lý nhà nước về quốc phòng từ Trung ương đến cơ sở tiếp tục được điều chỉnh trên cơ sở xác định rõ cơ chế hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, cán bộ chuyên trách quốc phòng ở các bộ, ngành. Nhiệm vụ quốc phòng của các cơ quan, ban, ngành các cấp được thể chế hoá bằng pháp luật nhằm phát huy cao nhất quyền lực quản lý nhà nước về quốc phòng. Sự phân cấp quản lý nhà nước về quốc phòng giữa các cơ quan của Chính phủ với chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được tiếp tục nghiên cứu để cụ thể hoá.

Các thủ tục hành chính trên lĩnh vực quản lý nhà nước về quốc phòng tiếp tục được cải cách đồng thời với xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách về quốc phòng trong sạch, có năng lực. Cán bộ chuyên trách tại các cơ quan chức năng được tăng cường bồi dưỡng, hướng dẫn để phát huy vai trò làm tham mưu trong tổ chức thực hiện xây dựng và quản lý công tác quốc phòng. Quy chế quan hệ, phối hợp, hiệp đồng giữa các ban, ngành, các cấp hoạt động liên quan đến quốc phòng cần được xây dựng, hoàn thiện để phát huy sức mạnh tổng hợp của tất cả các lực lượng. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống chính sách trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân được nghiên cứu bổ sung, ban hành điều chỉnh cho phù hợp với đặc điểm, yêu cầu của tình hình mới để mọi công dân có đủ điều kiện thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nhiệm vụ quốc phòng.

Thứ ba, Nhà nước thực hiện có hiệu quả quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng, tổ chức Quân đội tinh, gọn, mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng, tổ chức Quân đội vững mạnh toàn diện đã được hình thành từ rất sớm và không ngừng hoàn thiện qua các kỳ đại hội của Đảng. Nhiều nghị quyết, chỉ thị, luật, nghị định được Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng ban hành nhằm tăng cường hiệu quả, hiệu lực lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức Quân đội tinh, gọn, mạnh, như: Kết luận số 16-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam đến năm 2021 và những năm tiếp theo”; Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”; Nghị quyết số 606-NQ/QUTW Quân ủy Trung ương về lãnh đạo triển khai Kết luận số 16-KL/TW của Bộ Chính trị; chỉ đạo cơ quan chức năng xây dựng kế hoạch, chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XII) và Đề án về điều chỉnh tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2018-2021 và những năm tiếp theo; đồng thời rà soát, nắm tình hình tổ chức, biên chế trong toàn quân, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, triển khai đồng bộ các giải pháp xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, có sức cơ động và khả năng sẵn sàng chiến đấu cao.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cũng đã xác định: “Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”(4).

Với quyết tâm chính trị cao và giải pháp quyết liệt, đồng bộ, hợp lý, đến nay, về cơ bản tổ chức Quân đội được điều chỉnh phù hợp; bảo đảm sự cân đối, tương đối đồng bộ giữa các quân chủng, binh chủng, giữa cơ quan và đơn vị, giữa lực lượng thường trực và lực lượng dự bị động viên. Trong đó, cơ quan cấp chiến lược, chiến dịch được điều chỉnh theo hướng giảm các đơn vị phục vụ, đầu mối trung gian và từng bước khắc phục sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Đối với khối cơ quan cấp chiến dịch, chiến lược, đã tập trung rà soát, điều chỉnh tổ chức, biên chế theo hướng giảm đầu mối trung gian; bổ sung chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, khắc phục sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ để tăng cường quân số cho các đơn vị làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, đóng quân trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo. Đối với khối đơn vị chiến đấu, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị để điều chỉnh tổ chức, theo hướng tăng cường sức mạnh tác chiến, khả năng cơ động cao, sẵn sàng chiến đấu và xử lý các tình huống; coi trọng xây dựng lực lượng đặc thù, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ tác chiến trong tình hình mới. Sắp xếp lại các nhà máy sản xuất, cơ sở sửa chữa quốc phòng và điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, biên chế các nhà trường quân đội, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Qua đó, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về tổ chức, trang bị của Quân đội hiện đại, có cơ cấu hợp lý, số lượng phù hợp, chất lượng ngày càng cao. Hệ thống nhà trường, đơn vị sự nghiệp công lập, các cơ sở sản xuất, đoàn kinh tế - quốc phòng được điều chỉnh một bước về cơ cấu tổ chức, bảo đảm phù hợp với mục tiêu, yêu cầu xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh”./.

Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng gắn với tăng cường sự quản lý thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội là hai vấn đề then chốt, quan hệ chặt chẽ với nhau, có ý nghĩa quyết định trong việc xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Thượng tá, ThS. NGUYỄN NGỌC HƯƠNG 
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

____________________

(1) (2) (3) (4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.160, 160, 160, 157-158.

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất