THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Sau hơn 35 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có sự thay đổi vượt bậc, bước đầu hội nhập quốc tế trong nền kinh tế số. Tuy nhiên, đi kèm với những thành quả tăng trưởng, mô hinh kinh tế tuyến tính truyền thống (Linear Economy) theo chu trình khai thác, sản xuất và phát thải đã để lại những hệ lụy về bài toán ô nhiễm môi trường.
Theo đó, mô hình kinh tế tuyến tính đang đặt ra 3 vấn đề:
Thứ nhất, kinh tế tuyến tính truyền thống gây ra sự gia tăng rác thải.
Theo dự báo, lượng rác thải ở Việt Nam sẽ tăng gấp đôi trong vòng chưa đầy 15 năm tới và Việt Nam cũng là một trong 10 nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của ô nhiễm không khí. Trong khi đó, tỷ lệ tái chế rác thải ở Việt Nam mới đạt dưới 10% tổng lượng chất thải; một lượng chất thải đáng kể vẫn đang được xử lý bằng cách chôn lấp trực tiếp hoặc xả ra biển. Theo số liệu của Bộ Tài nguyên và Môi trường, trong khoảng 3 năm trở lại đây, số lượng rác thải rắn của Việt Nam vào khoảng 25,5 triệu tấn, trong đó, rác thải sinh hoạt đô thị khoảng 38 nghìn tấn/ngày, rác thải sinh hoạt ở nông thôn khoảng 32 nghìn tấn/ngày. Nghiêm trọng hơn là rác thải nhựa, rác thải điện tử, rác thải xây dựng và rác thải nguy hại cũng đang tăng rất nhanh.
Thứ hai, kinh tế tuyến tính làm gia tăng tiêu thụ tài nguyên, năng lượng.
Tiêu thụ năng lượng ở Việt Nam trong những năm qua đều tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Việt Nam đã trở thành nước nhập khẩu ròng năng lượng, bao gồm năng lượng than và dầu mỏ. Việc tiêu thụ nhiều nguyên liệu, năng lượng cũng như lãng phí phế thải không chỉ gây cạn kiệt dần tài nguyên, ảnh hưởng xấu đến môi trường mà còn khiến chi phí sản xuất ở mức cao, làm suy giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Thứ ba, Việt Nam đang là quốc gia có tốc độ hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế cao, đặc biệt là tham gia vào các hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương và các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Hầu hết các hiệp định này đều có những quy định, thỏa thuận về phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, phải tuân thủ các tiêu chuẩn phát thải chất thải, khí thải. Theo đó, các cam kết trong FTA thế hệ mới buộc các doanh nghiệp phải chú trọng đến lĩnh vực môi trường, lao động, phát triển bền vững và quản trị...
Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, tác động đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội, việc nghiên cứu đẩy mạnh đổi mới công nghệ, chuyển từ thế giới thực sang thế giới số thì 3 vấn đề nêu trên là tiền đề để thúc đẩy Việt Nam xây dựng lộ trình chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn.
Kinh tế tuần hoàn đã trở thành xu hướng phát triển tất yếu hiện nay, không chỉ vì mục tiêu môi trường, mà còn vì mục tiêu kinh tế. Cụ thể: 1) Kinh tế tuần hoàn không đơn giản là xử lý và tái chế chất thải của quá trình sản xuất đang có mà hướng tới việc thiết kế lại toàn bộ hệ thống, quy trình sản xuất sao cho sử dụng hiệu quả nhất tài nguyên và chất thải tạo ra có thể tái sử dụng. 2) Kinh tế tuần hoàn là một phương thức để nâng cao sức cạnh tranh thông qua việc tiết kiệm tài nguyên, sử dụng tài nguyên có hiệu quả hơn, đồng thời mở ra những cơ hội mới và sáng tạo trong những ngành, lĩnh vực mới. Theo đó, bản chất của mô hình kinh tế tuần hoàn là trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất, dịch vụ đặt ra mục tiêu kéo dài tuổi thọ của vật chất và loại bỏ tác động tiêu cực đến môi trường. Nói cách khác là mô hình kinh tế tuần hoàn chú trọng vấn đề quản lý và tái tạo tài nguyên theo một vòng khép kín, chất thải được tái sử dụng, tái chế làm nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất khác, hướng đến không thải ra môi trường, mang lại hiệu quả kinh tế.
Việt Nam đang thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 của toàn cầu thành Kế hoạch hành động quốc gia với 17 mục tiêu phát triển bền vững và 115 mục tiêu phù hợp với điều kiện cụ thể. Trong đó, tập trung những mục tiêu nhằm xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường và biến đổi khí hậu; đảm bảo mọi người ở khắp nơi có thể tận hưởng hòa bình và thịnh vượng. Một trong những mục tiêu quan trọng là làm sao phải quản lý bền vững, sử dụng tiết kiệm, hợp lý trước tình hình tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt để hướng tới sản xuất và tiêu dùng bền vững. Một trong những giải pháp quan trọng đó chính là chuyển đổi mô hình kinh tế sang mô hình kinh tế tuần hoàn.
Việc từng bước áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn đối với nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh hiện nay là phương thức ưu việt, phù hợp và đúng với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong chiến lược vì mục tiêu phát triển bền vững.
|
Với mô hình kinh tế tuần hoàn sẽ thúc đẩy các nhà sản xuất, các ngành công nghiệp tại các khu vực tập trung công nghiệp sử dụng hiệu quả tài nguyên, tối thiểu phát sinh chất thải, khí thải và hướng tới một nền kinh tế sạch hơn, xanh hơn; thúc đẩy xanh hóa hệ thống phân phối và phát triển chuỗi cung ứng quốc gia sản phẩm, dịch vụ thân thiện môi trường; thúc đẩy phát triển công nghiệp môi trường, công nghiệp tái chế chất thải. Hiện nay, Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030 đang là khung pháp lý nhằm tiếp cận tổng thể, toàn diện các nội dung và nhiệm vụ về sản xuất, tiêu dùng bền vững.
THỰC TIỄN ỨNG DỤNG Ở VIỆT NAM
Thời gian qua, tại nhiều diễn đàn, hội thảo khoa học liên quan đến chủ đề, các chuyên gia, nhà khoa học đều thống nhất cho rằng, mặc dù có những khía cạnh liên quan trong một số lĩnh vực và đã được Đảng, Nhà nước ta quan tâm, tuy nhiên hiện nay kinh tế tuần hoàn vẫn là vấn đề còn mới trong mặt bằng nhận thức chung ở Việt Nam, trong khi nó đã được vận hành ở không ít các quốc gia trên thế giới. Nhiều quốc gia thuộc khối EU, Trung Quốc, Nhật Bản, Úc... đã tập trung nghiên cứu, thể chế hóa vào thực tiễn về kinh tế tuần hoàn, đồng thời áp dụng thử nghiệm trên quy mô lớn, từng bước loại bỏ kinh tế tuyến tính, góp phần chung tay bảo tồn, bảo vệ và cải thiện môi trường hướng đến mục tiêu xây dựng hành tinh xanh.
Kinh tế tuần hoàn là một khái niệm không mới, được nhắc tới nhiều trên thế giới và cũng đã được nhiều quốc gia triển khai thành công. Tuy nhiên, tại Việt Nam, nhìn chung đây vẫn là một vấn đề khá mới, chưa có mô hình, bộ tiêu chí, cũng như chưa có doanh nghiệp nào thực sự xây dựng được.
|
Thực tế cho thấy, kinh tế tuần hoàn và mô hình kinh tế tuần hoàn đã xuất hiện ở Việt Nam, trước hết là ở trong nông nghiệp hoặc trong nông - công nghiệp kết hợp, nhưng chưa có sự thống nhất về nhận thức, còn thiếu những cơ chế chính sách cần thiết và việc vận dụng kinh nghiệm của các nước một cách linh hoạt, sáng tạo để thiết lập mô hình kinh tế tuần hoàn vào điều kiện cụ thể và thể chế đặc thù của Việt Nam.
Trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam, việc sử dụng các mô hình có liên quan đến kinh tế tuần hoàn, tận dụng phế phẩm, phụ phẩm đã được thực hiện khá phổ biến. Điển hình là mô hình “vườn - ao - chuồng” (VAC) hay “vườn - rừng - ao - chuồng” (VRAC) đã được áp dụng từ những năm 1970 - 1980, sau đó phát triển phổ biến với nhiều vật nuôi, cây trồng khác nhau, kết hợp trồng trọt, chăn nuôi theo chuỗi thức ăn và xử lý chất thải bằng Biogas. Trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, liên quan đến mô hình kinh tế tuần hoàn cũng đã được ứng dụng ở nhiều lĩnh vực, nhiều doanh nghiệp. Cụ thể như: 1) Để phát triển năng lượng tái tạo, nhiều doanh nghiệp đã đầu tư vào phát triển năng lượng điện mặt trời và năng lượng điện gió. Số dự án năng lượng mặt trời đăng ký tăng mạnh trong giai đoạn 2018 - 2020, tập trung chủ yếu ở các tỉnh Nam Trung Bộ; 2) Mô hình tận dụng phế phẩm, phụ phẩm trong sản xuất được áp dụng ở nhiều doanh nghiệp như phế phẩm ngành sản xuất mía đường để làm rượu hoặc phát điện, tro xỉ nhà máy nhiệt điện làm vật liệu xây dựng; 3) Trong tiêu dùng, nhiều mô hình tiêu dùng xanh đã ra đời theo hướng sử dụng sản phẩm có khả năng tái tạo, tiết kiệm năng lượng; 4) Gần đây nhất, mô hình các khu công nghiệp sinh thái mới ra đời, xuất hiện tại các địa phương như Hải Phòng (Khu công nghiệp Nam Cầu Kiền), Ninh Bình, Cần Thơ, Đà Nẵng.
Hiện nay, nhiều bộ, ban, ngành đã và đang tổ chức các chương trình lấy ý kiến đóng góp xây dựng dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, trong đó có nêu rõ lộ trình thực hiện kinh tế tuần hoàn và các cơ chế khuyến khích thực hiện. Bên cạnh việc giải quyết được nhiều nội dung trong 17 mục tiêu của phát triển bền vững, thì việc thực hiện hiệu quả mô hình kinh tế tuần hoàn sẽ góp phần giải bài toán thất nghiệp, dư thừa lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhờ vào quỹ việc làm được bổ sung do sự liên kết “cộng sinh” và mở rộng các ngành nghề, lĩnh vực; sự tiếp thu, đào tạo và ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại.
NGHIÊN CỨU, XÂY DỰNG MÔ HÌNH KINH TẾ TUẦN HOÀN
Ngày 7/6/2022, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái đã ký Quyết định 687/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam (Đề án). Trong đó, giao Bộ Công Thương phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện hệ thống tiêu chí về kinh tế tuần hoàn; xây dựng các mô hình kinh tế tuần hoàn thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Mục tiêu cụ thể của Đề án là:
Một là, góp phần cụ thể hóa mục tiêu giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP ít nhất 15% vào năm 2030 so với năm 2014, hướng tới mục tiêu phát thải ròng về “0” vào năm 2050.
Hai là, tăng cường nhận thức, sự quan tâm đầu tư của các doanh nghiệp, nhà đầu tư trong và ngoài nước đối với mô hình kinh tế tuần hoàn; đẩy mạnh ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn thúc đẩy xanh hóa các ngành kinh tế. Đến năm 2025, các dự án kinh tế tuần hoàn bước đầu đi vào thực hiện và phát huy hiệu quả kinh tế, xã hội, công nghệ và môi trường; đóng góp vào phục hồi các tài nguyên tái tạo được, giảm tiêu hao năng lượng, tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo trên tổng cung cấp năng lượng sơ cấp, tỷ lệ che phủ rừng, tăng cường tỷ lệ tái chế rác thải, tăng cường tỷ lệ nội địa hóa của các sản phẩm nông, lâm, thủy sản và công nghiệp xuất khẩu. Đến năm 2030, các dự án kinh tế tuần hoàn trở thành một động lực chủ yếu trong giảm tiêu hao năng lượng sơ cấp, có năng lực tự chủ phần lớn hoặc toàn bộ nhu cầu năng lượng dựa trên năng lượng tái tạo, và trong tăng cường tỷ lệ che phủ rừng.
Ba là, mô hình kinh tế tuần hoàn hỗ trợ xây dựng lối sống xanh, khuyến khích phân loại rác thải và thúc đẩy tiêu dùng bền vững. Đến năm 2025, tái sử dụng, tái chế, xử lý 85% lượng chất thải nhựa phát sinh; giảm thiểu 50% rác thải nhựa trên biển và đại dương so với giai đoạn trước đây; giảm dần mức sản xuất và sử dụng túi ni lông khó phân hủy và sản phẩm nhựa dùng một lần trong sinh hoạt. Tăng đáng kể năng lực tái chế rác thải hữu cơ ở đô thị và nông thôn. Nâng cao nhận thức của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cộng đồng và người dân trong sản xuất, tiêu thụ, thải bỏ chất thải nhựa, túi ni lông khó phân hủy và sản phẩm nhựa dùng một lần trong sinh hoạt.
Để thực hiện mục tiêu trên, Phó Thủ tướng Chính phủ giao các bộ, ngành tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trong Đề án phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam. Trong đó có các nội dung liên quan đến Bộ Cộng thương như:
Bộ Công Thương phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện hệ thống tiêu chí về kinh tế tuần hoàn; xây dựng các mô hình kinh tế tuần hoàn thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Bộ Công Thương xây dựng chính sách thúc đẩy chuyển dịch năng lượng theo hướng xanh, sạch, bền vững, tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo, giảm phụ thuộc vào năng lượng nhập khẩu, năng lượng hóa thạch; tăng cường các giải pháp công nghệ đảm bảo phát triển hài hòa năng lượng mới, năng lượng tái tạo, tăng cường khả năng tích hợp năng lượng tái tạo và hệ thống điện; giảm tiêu hao năng lượng.Xây dựng danh mục và hướng dẫn triển khai các giải pháp kỹ thuật hiện có tốt nhất, kinh nghiệm quản lý môi trường tốt nhất cho các ngành công nghiệp theo điều kiện quốc gia và mức độ phát triển của khoa học và công nghệ; rà soát, xây dựng và ban hành định mức tiêu hao năng lượng cho các ngành công nghiệp. Triển khai giải pháp quản lý và công nghệ trong khai thác, chế biến khoáng sản, chú trọng chế biến sâu, tạo ra sản phẩm có giá trị kinh tế cao.
Bộ Công thương chủ trì trao đổi, phối hợp với các đối tác nhằm tạo thuận lợi thương mại, công nhận lẫn nhau cho các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ từ mô hình kinh tế tuần hoàn. Xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách về cụm công nghiệp sinh thái, bền vững; áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong xây dựng, vận hành, quản lý các cụm công nghiệp./.
THIỆU ANH