Nhân Tết Tân Mão, xen giữa hương vị của bánh chưng, dưa hành, màu sắc
hoa xuân… mời bạn đọc thưởng thức mấy câu chuyện ngôn ngữ liên quan tới
Tết cho đậm đà phong vị ngày xuân..
“Có mà đến Tết”!
Trong giao tiếp hàng ngày, chúng ta vẫn thường nghe
mọi người nói với nhau: “Chuyện ấy đâu dễ như thế được. Cứ đợi đấy, có
mà đến Tết may ra mới xong!”; “Làm đủng đa đủng đỉnh như ả chơi giăng
thế kia thì có đến Tết cũng chả xong”...
Đến Tết ở đây có nghĩa là còn lâu, rất lâu chứ không
phải là một khoảng thời gian ngắn được. Ta cũng còn thấy nhiều tổ hợp
khác gần nghĩa với cụm từ này, như “còn lâu nhé”, “có mà đến mục thất
chưa xong”, “có mà ăn ba cót thóc nữa cũng chưa xong”...
Tết (đọc chệch âm của từ “tiết”, như tiết Lập Xuân,
tiết Kinh Trập, tiết Đoan Ngọ...) là một sự kiện đặc biệt có liên quan
tới nhiều nhân tố (về thời gian, khí hậu, phong tục tập quán...) của mỗi
dân tộc.
Những tiết thực sự quan trọng và gắn với nghi thức lễ
hội được gọi là Tết. Việt Nam (và một số nước châu Á) có phong tục đón
nhiều cái tết: Tết Nguyên đán, Tết Nguyên tiêu, Tết Hàn thực, Tết Trung
thu,... Tuy nhiên, cái tết lớn nhất, thiêng liêng nhất, hội đủ mọi ý
nghĩa đặc sắc nhất vẫn là Tết Nguyên đán (Nguyên đán: buổi sáng đầu
năm). Đó là lúc con người và trời đất ở thời khắc bắt đầu chuyển sang
một năm mới (âm lịch). Nó là cái mốc để lại dấu ấn đậm nét về văn hoá
tâm linh. Tín ngưỡng dân gian cho rằng mọi điều may rủi, mọi cơ hội làm
ăn, thăng tiến hay phát tài phát lộc đều xuất phát từ những sự kiện mở
màn của năm mới này.
Vậy thì, cứ mỗi một năm cũ qua là ta lại đón nhận một
năm mới. Tuy nhiên, một năm với khoảng 365 ngày kia có gì là dài lắm
đâu nhỉ? Xuân hạ thu đông, cứ bốn mùa là tạo vật lại trở lại theo chu kì
cũ thôi mà. Nhưng, từ xa xưa, để đi từ cái tết này sang cái tết khác
dân gian ta đã trải qua một hành trình nhiều gian khó. Phải lo làm ăn,
một nắng hai sương. Muốn ăn Tết cho vui vẻ, đủ đầy, trọn vẹn, mỗi gia
đình phải lo gom góp chuẩn bị rất nhiều thứ để sửa sang nhà cửa, chuẩn
bị gạo thóc, đỗ đậu, lợn gà... Và nói chung, muốn thế, người dân phải
lấy cái đích tết sắp đến đó để mà lo phấn đấu, lo làm ăn cả năm.
Sự khó khăn vất vả làm cho những điều trông đợi kia
cứ như rất dài, rất gian nan, trắc trở, mong chờ… mỏi cả mắt. Đợi cho
đến được Tết quả là một thời gian quá lâu, nhất là đối với những trẻ em
hay những người nghèo khó. Trẻ được bát canh, già được manh áo mới. Ôi
cái tết kia cứ khắc khoải như một niềm ao ước với bao người. Nó vừa rất
hiện thực gần gũi, lại vừa rất thiêng liêng.
Chính từ những sự kiện đặc biệt của Tết Nguyên đán ấy
mà dân gian ta đã tận dụng nội hàm này để biểu trưng hoá trong thành
ngữ “Có mà đến Tết”.
Giờ đây, cái Tết cũng không còn phải chuẩn bị mất
nhiều công sức như ngày xưa. Sự trông đợi có lẽ cũng không còn mỏi mòn
đằng đẵng như hồi trước nữa. Nhưng câu thành ngữ với nét nghĩa biểu cảm
trên vẫn tồn tại trong tâm khảm của mọi thế hệ con người Việt Nam thời
hiện đại. Tết vẫn luôn luôn là một sự kiện trang trọng và thiêng liêng
với mọi nhà.
Ăn cơm mới, nói chuyện cũ
Đây là một câu thành ngữ mà dân gian ta rất hay dùng
mỗi khi Tết đến xuân về. Vào dịp cuối năm, nhất là vào đêm Ba mươi Tết
(thời khắc cuối cùng của năm cũ) hoặc vào ngày mồng Một Tết, trong không
khí gia đình sum họp đủ đầy ấm cúng, các bậc cao niên trong nhà thường
nhắc nhở con cháu mình: “Thôi thì ăn cơm mới nói chuyện cũ, bố mẹ không
nhắc nhở, trách cứ gì ai. Nhưng những chuyện trong năm qua đáng để nhà
mình nhìn lại mà khắc phục. Âu cũng là một dịp ôn cố tri tân”.
“Ăn cơm mới, nói chuyện cũ”, một câu thành ngữ 6
tiếng chia thành 2 vế, đối nhau khá chỉnh. Tổ hợp “cơm mới” là một câu
nói cửa miệng, rất hay dùng đối với nhà nông. Tục cúng cơm mới (bữa cơm
gạo mới khi bắt đầu mùa thu hoạch) bao giờ cũng là một nghi thức mang
đậm tín ngưỡng dân gian của nông thôn ta từ xưa đến nay. Nhưng cơm mới
trong thành ngữ này lại mang một ý nghĩa khác. Nó dùng để hàm chỉ hiện
thực đang tồn tại, đang được nói đến. Có thể đó là năm mới, hoặc có thể
là một cái mốc sự kiện mới đến nào đó (như sang nhà mới, cưới vợ, con
cái trưởng thành,...).
Cũng chính vì vậy mà cơm mới còn hàm ý chỉ sự tốt
lành, mới mẻ, là niềm vui cần chia sẻ... Và mỗi khi có sự chuyển biến
tích cực đó trong cuộc sống, người ta thường có thói quen nhắc lại
chuyện xưa, từ chuyện mới nhớ về chuyện cũ. Những câu chuyện đã qua đó
thường gắn với quá khứ gian nan, cơ cực, thậm chí buồn đau... Chính sự
nhìn nhận, ôn lại cái cũ ấy giúp người ta hiểu thêm được cái mới, thấy
rõ giá trị của cái mới. Từ đó mà chúng ta thêm yêu, thêm trân trọng
thành quả vừa có được và yên tâm vững bước trên đường đời.
Câu thành ngữ “Ăn cơm mới, nói chuyện cũ” rõ ràng
không còn bó hẹp trong chuyện ăn và nói như vốn dùng trong cuộc sống.
Xét cho cùng, đây là một thông điệp hàm súc về một bài học ứng xử giàu
tính triết lí và đậm chất nhân văn. Bởi quá khứ và hiện tại luôn là một
sự tiếp nối không thể tách rời trong dòng chảy của lịch sử.
Năm Tân Mão đã đến rồi. Một chu kì thời gian quan
trọng với mỗi người chúng ta đang mở ra những khả năng và vận hội mới.
Thiết tưởng, ngày hôm qua như vẫn còn hiển hiện, nhắc nhở chúng ta nhiều
điều trên con đường hoàn thiện một cuộc sống sao cho tốt đẹp hơn. “Cơm
mới” sẽ ngon hơn, ý vị hơn nếu ta không quên nhớ về “chuyện cũ”.
Lì xì xưa và nay
Đây là một từ đã rất quen thuộc và thường được nhắc đến nhiều mỗi khi vào dịp Tết.
Từ điển Tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, NXB Đà Nẵng,
2006) vẫn coi “lì xì” là phương ngữ (tiếng địa phương), với nghĩa là
“mừng tuổi”. Có lẽ do ban đầu từ này chỉ thấy xuất hiện ở miền Nam (chủ
yếu ở vùng Chợ Lớn - Sài Gòn trước đây), sau này mới lan dần ra toàn
quốc.
Theo nhiều nhà nghiên cứu, Chợ Lớn là trung tâm buôn
bán có nhiều người Hoa sinh sống. Lì xì (cũng có người đọc lầy xì) là
cách nói Việt hoá âm Quảng Đông (Trung Quốc), đọc chính âm Hán - Việt là
“lợi thị” (điều tốt lành, (có) lợi lộc, (có) vận may, vận tốt...).
Tương truyền là từ đời Đường, nhà vua khi nhận lễ vật
của khách bốn phương cúng tiến, thường bớt một chút quà đó tặng lại
khách (như tục lại quả trong đám ăn hỏi ở ta vậy) gọi là lộc vua. Thói
quen đó lan rộng ra các gia đình quan lại, quyền quý, khá giả. Nhưng
việc bớt lại lễ vật nhiều khi cũng bất tiện. Bởi có phải lễ vật nào (như
trâu gà dê lợn, vàng bạc, ngà voi...) cũng “xẻo” ra một chút được đâu.
Vả lại lễ vật cũng nhiêu khê, cồng kềnh, khó gói, khó mang. Nên người ta
liền “cải tiến”, cho một chút tiền vào “phong bao” tặng lại. Một cách
đáp lễ tiện cả đôi đường. Rồi thói quen này trở thành phong tục dân gian
nhân lễ tết nói chung.
Ở Việt Nam ta, tục mừng tuổi cũng có từ lâu. Thường
thì nhân dịp Tết Nguyên Đán, ông bà cha mẹ hay tụ tập con cháu nhân sáng
mồng Một Tết, chúc tụng và mừng tuổi cho mỗi người một chút tiền (tiền
chinh, bằng kim loại). Đó là một cử chỉ lấy “khước” cho con cháu khoẻ
mạnh, học hành giỏi giang, làm ăn phát đạt, tài lộc dồi dào. Âu cũng là
một phong tục đẹp trong dân gian (theo Phan Kế Bính, Việt Nam phong
tục).
Theo PGS.TS Phạm Văn Tình / chinhphu.vn