Thứ Hai, 7/10/2024
Giáo dục
Chủ Nhật, 25/1/2009 8:52'(GMT+7)

Suy nghĩ về giáo dục

Trước Cách mạng tháng Tám, cả nước có 640.615 học sinh, sinh viên trong đó có 582 sinh viên đại học (1), đến năm 2008 cả nước với khoảng 87 triệu dân đã có khoảng 22 triệu học sinh, sinh viên, trong đó có hơn 2,3 triệu sinh viên đại học, cao đẳng, đưa bình quân số sinh viên đại học, cao đẳng trên 1 vạn dân lên 188. Quy mô đào tạo nghề dưới một năm vào khoảng 1.268.150 người, trung cấp nghề, cao đẳng nghề là 394.350; trung cấp chuyên nghiệp là 614.516. Với kết quả đào tạo như trên đã đưa lực lượng lao động ở nước ta qua đào tạo theo các loại hình và trình độ đào tạo khác nhau chiếm 31,5% (năm 2007), tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên có trình độ từ cao đẳng trở lên đạt bình quân trong cả nước là 4,2%. Mạng lưới trường lớp đã đến tất cả các bản làng xa xôi. Năm 2007- 2008 (2), cả nước có 40.458 trường học. Hệ thống giáo dục khá hoàn chỉnh từ bậc mầm non đến sau đại học. Hầu hết các bản, làng, xã, phường đều có trường lớp tiểu học, trường trung học cơ sở ở các xã hoặc cụm liên xã, các huyện đều có trường trung học phổ thông, có huyện có 2 đến 3 trường; các địa bàn dân cư lớn, các vùng, các địa phương đều có trường đại học (ở 8 vùng trong cả nước, vùng ít nhất có 5 trường, nhiều nhất có 104 trường (3)). Điểm qua một số nét về giáo dục nước ta sau hơn sáu mươi năm dưới sự lãnh đạo và quan tâm của Đảng để thấy được sự nỗ lực to lớn của toàn Đảng, toàn dân ta đối với sự nghiệp phát giáo dục của nước nhà.

Bên cạnh những thành tựu to lớn, trong mấy chục năm gần đây, giáo dục ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề đáng quan tâm: Nền giáo dục của chúng ta chưa được xây dựng và phát triển trên cơ sở một nền tảng lý luận vững chắc, mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, nhiều khi còn duy ý chí. Nhiều năm qua, chúng ta vẫn lúng túng chưa tìm ra lý thuyết phát triển giáo dục phù hợp với tình hình mới. Những lúng túng và yếu kém về giáo dục trong thời gian qua có cội nguồn từ tư duy chậm đổi mới.

Từ bài học thực tế, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều lấy giáo dục phổ thông làm nền tảng cho việc đào tạo ở bậc đại học nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của mình, mỗi nước có thể nhấn mạnh các khía cạnh khác nhau trong chiến lược phát triển giáo dục. Trước tình hình thế giới có nhiều thay đổi, các nước đã và đang tìm hướng phát triển giáo dục và họ đã thành công, thì nhiều năm nay giáo dục ở nước ta vẫn ì ạch, chưa thoát khỏi tình trạng lạc hậu, cùng với những khó khăn khác đã gây ra nhiều chứng bệnh tiêu cực kéo dài.

Cũng chính vì sự lạc hậu về lý luận giáo dục, nên chúng ta thiếu tư duy phát triển giáo dục một cách khoa học, để từ đó xây dựng một chiến lược giáo dục vừa đạt được mục tiêu trước mắt, vừa đạt được mục đích lâu dài. Có thể thấy rằng, sự phát triển về qui mô giáo dục những năm gần đây vừa là thành tựu nổi bật, nhưng cũng là khuyết điểm của ngành Giáo dục. Nó đã tạo ra sự mất cân đối giữa các ngành học, bậc học, tạo ra sự mâu thuẫn gay gắt giữa qui mô và chất lượng. Giáo dục chưa gắn với nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực, chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất, gây lãng phí lớn cho xã hội và nhân dân. Nguyên nhân của sự mất cân đối trên không phải do phát triển qui mô, mà đó là chúng ta chưa dự báo được nhu cầu của xã hội về cơ cấu nguồn nhân lực để phát triển qui mô giáo dục ở bậc học nào, ngành học nào cho phù hợp và hiệu quả nhất. Đây là sự yếu kém của sự điều hành vĩ mô.

Về chất lượng giáo dục đã và đang giảm sút. Tình trạng này đã tồn tại trong suốt một thời gian dài nhưng chưa có biện pháp khắc phục hữu hiệu. Chất lượng nguồn nhân lực qua đào tạo không đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội, đang trở thành nhân tố cản trở sự phát triển đất nước. Một nghịch lý là số lượng cán bộ khoa học (đặc biệt là số TS, PGS, GS) ở nước ta cao vào loại nhất trong khu vực, thế mà chất lượng và số lượng các công trình nghiên cứu khoa học, chất lượng nguồn nhân lực, chất lượng giáo dục thì lại được đánh giá vào loại thấp nhất. Trong khi giáo dục đang bộc lộ nhiều yếu kém thì chi phí cho lĩnh vực này lại tăng liên tục, đang trở thành gánh nặng phi lý đối với ngân sách quốc gia và của người dân.

Đạo đức, nhân cách của thế hệ trẻ đang có chiều hướng xấu đi đến mức báo động. Tệ nạn xã hội và tội phạm trong lứa tuổi học sinh, sinh viên đang gia tăng cả về số vụ và mức độ vi phạm. Trong số hơn hai trăm dạng tội phạm có trong xã hội hiện nay thì học sinh, sinh viên đều mắc phải, kể cả tội cướp của, giết người, buôn bán ma tuý. Tuổi đời vi phạm có xu hướng trẻ hoá, một số hành vi ngày càng phức tạp và dã man. Sự xuống cấp về đạo đức tăng nhanh theo cấp học, theo lứa tuổi. Những biểu hiện thiếu văn hoá diễn ra trong nhà trường không còn là chuyện cá biệt, mà đã trở thành tình trạng khá phổ biến ở nhiều nơi. Một số trường học, quan hệ thầy trò thiếu lành mạnh, có phần thô bạo, vô văn hoá mà trước đây chưa từng có cũng đã xuất hiện. Văn hoá học đường đang bị tổn thương nghiêm trọng. Sự băng hoại về văn hoá là hệ quả tất yếu của nền giáo dục yếu kém, nó kéo theo tác động tiêu cực đến hàng loạt vấn nạn khác. Nền giáo dục ở nước ta mới đạt tới mục tiêu dạy chữ mà ít quan tâm đến “dạy người”, “dạy nghề”.

Về đội ngũ giáo viên. Phải khẳng định rằng, giáo viên đóng vai trò quyết định chất lượng giáo dục và đào tạo. Thế nhưng, đã nhiều năm trôi qua, giáo viên ở nước ta luôn ở trong tình trạng vừa thừa, vừa thiếu, vừa yếu, vừa không đồng bộ. Vấn đề này đã được phản ánh nhiều lần trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhưng đến nay vẫn chưa khắc phục được nhiều. Điều đó thể hiện chúng ta chưa có chính sách thực sự tôn vinh, ưu đãi nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục một cách hợp lý để thu hút được những người có tài, có đức yên tâm làm công tác giáo dục.

Về chương trình và sách giáo khoa. Đã nhiều năm nay, không ít ý kiến của các nhà giáo dục, nhà khoa học lên tiếng về sự bất hợp lý đối với chương trình và sách giáo khoa, nó vừa thiếu tính khoa học, vừa thừa những nội dung đã cũ kĩ không còn giá trị sử dụng, vừa thiếu những nội dung cần thiết cho cuộc sống. Những yếu kém này đã làm cản trở sự liên thông, liên kết giữa các bậc học, các ngành đào tạo. Đến nay tình trạng này vẫn chưa được khắc phục, trong khi Nhà nước và nhân dân đã phải chi phí hàng nghìn tỷ đồng cho công tác này. Đó là sự lãng phí ghê gớm, không những thế nó còn có tác động tiêu cực tới chất lượng giáo dục trong suốt hàng chục năm qua.

Lâu nay người ta thường phê phán phương pháp dạy và học ở các cấp lạc hậu, mô hình tổ giáo dục, đào tạo được mô phỏng, hoặc rập khuôn theo kiểu hàn lâm, nặng lý thuyết, nhẹ thực hành; đào tạo theo kiểu hình ống mà không có sự sàng lọc. Chúng ta nặng về phê phán nhưng lại không tìm hiểu nguyên nhân, cội nguồn của những yếu kém đó, đặc biệt là không đưa ra được những giải pháp để khắc phục. Trước đây, nhà trường thường chăm chú đào tạo những lớp người theo những khuôn mẫu nhất định, ngoan ngoãn làm theo, hơn là độc lập suy nghĩ và tự chịu trách nhiệm. Những mẫu người như thế không phù hợp trong thế kỷ XXI.

Trước những yêu cầu của thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thì giáo dục không thể nhồi nhét càng nhiều kiến thức càng tốt, mà giáo dục cần rèn luyện khả năng tư duy, khả năng thích ứng mau lẹ trong mọi hoàn cảnh, có đủ bản lĩnh tự khẳng định mình, đồng thời thúc đẩy cộng đồng tiến lên. Phương pháp giáo dục phải giúp cho người học có khả năng thích ứng cao với môi trường không ngừng biến đổi, hình thành thói quen tự học, tự rèn luyện để hoàn thiện bản thân, có hoài bão lớn lao và luôn ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đối với xã hội; biết đề xuất những ý tưởng mới và giải quyết những vấn đề phát sinh một cách sáng tạo. Nếu trước kia mục tiêu hàng đầu của giáo dục là tập trung truyền đạt kiến thức hàn lâm cho học sinh, sinh viên, thì ngày nay, là dạy cho học sinh, sinh viên cách học, cách làm người, có óc phê phán và sáng tạo, có năng lực giải quyết vấn đề, rèn luyện ý chí lập thân, lập nghiệp, kỹ năng giao tiếp, làm việc tập thể; được trang bị chu đáo về kiến thức xã hội, đạo đức thẩm mỹ; biết cách tìm tòi những tri thức mới và kiểm định những kiến thức tiếp thu được trong thực tế cuộc sống; có tư duy mới, thích dấn thân vào việc khó, sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm, không ngại gian khổ hy sinh để có những thành công lớn.

Những năm gần đây, chúng ta bắt đầu nghiên cứu để áp dụng mô hình đào tạo theo mô hình giáo dục của các nước Âu, Mỹ, nhưng do chưa chuẩn bị kĩ các điều kiện để thực hiện nên đã bộc lộ nhiều khuyết điểm, dẫn tới chất lượng giáo dục bị phân hoá, một bộ phận có phần giảm sút; chất lượng đào tạo đang có biểu hiện thấp hơn so với cách đào tạo trước đây.

Công tác quản lý giáo dục ở nước ta quá ôm đồm, làm mất quyền chủ động, linh hoạt của các cấp, nó đang bộc lộ những yếu kém thể hiện rõ nét ở ba mặt: Tài chính sử dụng kém hiệu quả và không minh bạch; Đội ngũ cán bộ quản lý vừa thiếu, vừa yếu và không chuyên nghiệp; Quản lý thi cử, bằng cấp quá nhiều sơ hở, lỏng lẻo trong kiểm tra, thanh tra, dẫn đến hiện tượng mua bằng, bán điểm, học “giả”, thi cử “giả” nhưng “bằng cấp thật” ở các ngành học, bậc học, loại hình học. Điều này đã tạo ra không ít cán bộ “trình độ giả”, “sản phẩm giả” trong xã hội, hình thành nên “văn hoá nói dối” có hệ thống; làm cho xã hội rối loạn, đạo đức xã hội bị băng hoại, văn hoá bị tổn thương, kỷ cương phép nước bị coi thường.

Về sự giả dối trong bằng cấp, không thể đổ lỗi hoàn toàn cho giáo dục mà chính là do cách sử dụng người của chúng ta. Nếu chúng ta lấy tiêu chí bằng cấp như là điều kiện bắt buộc đầu tiên, quyết định để đánh giá sắp xếp bố trí cán bộ, tuyển chọn công chức, thăng quan tiến chức, thì lập tức “có cầu” ắt sẽ “có cung” và sẽ có ngay bằng cấp “giả” cho những cán bộ “trình độ giả”. Những cán bộ “trình độ giả” này tìm mọi cách “chui” vào các cơ quan công quyền để trở thành những vật cản của xã hội. Như vậy, chúng ta cần nghiên cứu sâu sắc cách sử dụng cán bộ theo hướng chọn lựa được những người “thực tài” mà không câu nệ quá nhiều vào bằng cấp, thì những “vấn nạn giả” nói trên dần dần sẽ bị đẩy lùi.

Nhìn lại quá trình phát triển giáo dục ở Việt Nam, có người cho rằng, hình như nền giáo dục ở nước ta có khả năng chuẩn bị những con người có đủ phẩm chất và năng lực phục vụ công cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, đấu tranh thống nhất đất nước, nhưng lại chưa đáp ứng yêu cầu về chuẩn bị con người cho công cuộc kiến thiết và xây dựng đất nước. Sự thiếu hụt này càng bộc lộ rõ khi đất nước bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Để khắc phục những khuyết điểm nêu trên, giáo dục ở thế kỷ XXI, theo chúng tôi cần đặc biệt chú ý những vấn đề sau:

1) Cần thay đổi triết lý giáo dục cho phù hợp với yêu cầu của thời đại. Trong nền kinh tế tri thức, yếu tố quyết định là con người phải có khả năng sáng tạo, bên cạnh đó cần phải có nhân cách tốt. Tri thức mà thiếu tính sáng tạo thì tri thức không phát triển được. Có tri thức mà không có nhân cách tốt thì có khi còn làm hại cho xã hội. Cần đặc biệt quan tâm giáo dục nhân cách từ tuổi ấu thơ cho đến lúc trưởng thành và cả sau này nữa.

2) Công bằng, dân chủ là xu hướng của xã hội tiến bộ, hiện đại. Bảo đảm cho mọi công dân quyền bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trong học tập. Chỉ khi có công bằng, dân chủ trong giáo dục, thì mọi người, dù giàu nghèo đều có cơ hội học tập và thành đạt ngang nhau, khi đó tiềm năng trí tuệ của xã hội mới được khai thác hết. Phải nói rằng trước đây, mặc dù còn khó khăn gian khô,í nhưng nền giáo dục nước ta đã làm rất tốt điều này.

3) Giáo dục phải tôn trọng, phát triển cá tính, phải mở ra nhiều con đường, nhiều hướng, tạo nhiều cơ hội lựa chọn cho thế hệ trẻ phát triển tài năng, bồi dưỡng nhân tài. Từ xưa tới nay, sự hưng thịnh của các quốc gia một phần rất quan trọng, mang tính quyết định là do có nhiều nhân tài và sử dụng tốt nhân tài. Cho nên, hệ thống giáo dục cần có biện pháp để đào tạo nhiều người tài, xã hội phải tạo môi trường tốt nhất để nhân tài phát triển. Vì vậy, cả ba mục tiêu “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” của giáo dục là sự thống nhất, không thể tách rời.

4) Trong thời đại khoa học, công nghệ tiến nhanh như ngày nay, không ai có thể thoả mãn với vốn kiến thức đã có của mình. Mọi người đều cần học tập, học thường xuyên, học suốt đời. Để thực hiện xã hội học tập, thì ngay từ nhà trường phổ thông, phải giáo dục cho học sinh có lòng ham mê tri thức và rèn luyện thói quen tự học, tự đọc, tự tìm thông tin để nâng cao sự hiểu biết.

5) Phải đổi mới cách quản lý giáo dục, làm cho hệ thống giáo dục vận hành thông suốt và có hiệu quả, công tác này phải trở thành nền tảng phát triển trí tuệ, phát triển năng lực sáng tạo của mỗi người và của cả xã hội. Quản lý giáo dục là một khoa học nên rất cần được nghiên cứu và tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý giỏi để trong tương lai không xa giáo dục ở nước ta phát triển lành mạnh, đuổi kịp các nước có nền giáo dục tiên tiến hàng đầu./.

Nguyễn Đắc Hưng

Vụ Giáo dục và đào tạo, Dạy nghề


————————-

(1) Nguồn: Phạm Minh Hạc (chủ biên) – Tổng kết 10 năm (1990-2000) xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học.

(3) Theo số liệu của Dự án quy hoạch phát triển mạng lướic các trường ĐH, CĐ đã được Chính phủ phê duyệt năm 2007.

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất