Về cơ bản, nội dung của Dự thảo Luật bảo đảm tính khả
thi. Cùng với đó, việc ban hành Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) sẽ đáp ứng yêu
cầu của quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa, chuyển đổi mô hình tăng trưởng
kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu, bảo đảm cho sự phát triển bền vững đất
nước, đáp ứng được sự hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi
trường.
Ngày 26/9, tại Hà Nội, Ủy ban Khoa học-Công nghệ và
Môi trường của Quốc hội đã tổ chức phiên họp toàn thể lần thứ 6, tiếp tục thẩm
tra và cho ý kiến về dự án Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi).
Theo
Ủy ban Khoa học-Công nghệ và Môi trường, dự thảo Luật được xây dựng trên cơ sở
tổng kết 8 năm thực hiện Luật Bảo vệ Môi trường năm 2005 đồng thời bổ sung một
số nội dung mới phù hợp với tình hình thực tế của công tác bảo vệ môi
trường.
Do vậy, về cơ bản, nội dung của Dự thảo Luật bảo đảm tính khả
thi. Cùng với đó, việc ban hành Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) sẽ đáp ứng yêu
cầu của quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa, chuyển đổi mô hình tăng trưởng
kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu, bảo đảm cho sự phát triển bền vững đất
nước, đáp ứng được sự hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi
trường.
Tuy nhiên, theo ông Võ Tuấn Nhân, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa
học-Công nghệ và Môi trường, bên cạnh những điểm mới, dự thảo Luật Bảo vệ Môi
trường (sửa đổi) vẫn còn còn “mang” một số khoản quy định còn chung chung, thiếu
cụ thể nên rất khó áp dụng vào thực tiễn. Do đó, ban soạn thảo cần cân nhắc,
điều chỉnh cho phù hợp với hệ thống pháp luật Việt Nam.
Cụ thể, về việc
đánh giá tác động môi trường, Tờ trình của Chính phủ có nêu: “Đánh giá tác động
môi trường sơ bộ không cần thiết phải thẩm định, do đó sẽ không phát sinh các
thủ tục hành chính.” Tuy nhiên, tại điểm c khoản 2 Điều 14 dự thảo Luật quy định
“Báo cáo đánh giá tác động môi trường sơ bộ phải được lấy ý kiến bằng văn bản
của Bộ Tài nguyên và Môi trường.”
“Do đó, Ủy ban
Khoa học, Công nghệ và Môi trường đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, rà soát quy
định này để đảm bảo thực sự là không phát sinh thủ tục hành chính và khắc phục
được vấn đề lãng phí cho chủ đầu tư và xã hội,” ông Võ Nhân nhấn mạnh.
Về
việc đánh giá môi trường chiến lược, ông Nhân cho rằng việc phân nhóm chiến
lược, quy hoạch cần lập đánh giá tác động môi trường là cần thiết. Tuy nhiên,
Ban soạn thảo cần rad soát, chỉnh sửa, bổ sung cho đúng và đầy đủ các loại chiến
lược, quy hoạch phải lập đánh giá môi trường chiến lược.
“Cùng với đó,
việc loại bỏ đánh giá môi trường chiến lược đối với tất cả các kế hoạch cũng cần
xét lại. Bởi vì có loại kế hoạch cũng tiềm ẩn, có thể gây tác động xấu đến môi
trường,” ông Nhân nhìn nhận.
Liên quan đến vấn đề khởi kiện môi trường,
bồi thường thiệt hại về môi trường, bà Bùi Thị An, thành viên đoàn đại biểu quốc
hội thành phố Hà Nội cho rằng thiệt hại do ô nhiễm môi trường có thể phát hiện
trong thời gian ngắn, kể từ ngày xảy ra vi phạm, nhưng cũng có thể phát hiện sau
nhiều năm.
Tuy nhiên, theo quy định tại Bộ luật Dân sự về thời hiệu khởi
kiện để yêu cầu bồi thường thiệt hại, chỉ được khởi kiện trong vòng 2 năm kể từ
ngày quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân bị xâm hại. Trên thực tế, nhiều thiệt
hại do ô nhiễm môi trường gây ra khi phát hiện đã hết thời điểm khởi
kiện.
“Vì vậy, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đề nghị cơ quan
soạn thảo nên quy định thời hiệu khởi kiện, yêu cầu thiệt hại về môi trường theo
hướng 2 năm tính từ thời điểm tổ chức, cá nhân phát hiện quyền và lợi ích hợp
pháp của mình bị xâm phạm,” bà An khuyến nghị.
Tại phiên họp, các vấn đề
như bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu, bảo vệ môi trường làng nghề,
quan trắc môi trường, những quy định trong Luật Bảo vệ Môi trường năm 2005 cần
được giữ lại cũng được các đại biểu cho ý kiến, nhằm sớm hoàn thiện
Luật./.
Hùng Võ
(Vietnam+)