Về thơ và phê bình thơ, tôi có cảm giác lĩnh vực sáng tạo này đang có trục trặc nào đó, biểu hiện bằng một số nghịch lý sau đây:
- Người xuất bản thơ đông lên,
mỗi năm ước khoảng một nghìn tập, nhưng tác phẩm hay, có sức thu hút độc
giả lại hiếm. Ấn phẩm thơ thuộc mặt hàng không bán được. Nhiều hiệu
sách không nhận bán thơ.
- Số lượng các giải thưởng tăng
lên. Giải của các hội Trung ương rồi giải của các tỉnh, thành, các
ngành. Riêng về thơ, hàng năm cũng có hàng dăm ba trăm người được giải.
Ngay giải thưởng cấp quốc gia là giải Nhà nước và giải Hồ Chí Minh cũng
trao phát khá rộng rãi. Riêng về thơ, tính trung bình hàng năm tới 4
người đoạt giải này. Chẳng lẽ vì giải thơ ngày một nhiều mà người đọc
thơ ngày một hiếm? Các giải thưởng mất dần tác dụng cổ vũ giới thiệu.
Nhận xét cao hứng của ai đó rằng nước ta là một cường quốc thơ, có lẽ
phải nói rõ là cường quốc hăng hái làm thơ nhưng lại... kinh hãi đọc
thơ.
- Việc luận bàn về thơ, tiêu
chí đánh giá thơ rất phân tán. Đó là điều hay trong ý nghĩa dân chủ và
phong phú về khuynh hướng thẩm mỹ. Nhưng lại không hay về ngưỡng tri
thức trong các lập luận. Những nhận định cảm tính thô sơ, những sùng
ngoại thô thiển, niềm tự hào hãnh tiến, sự ngạo mạn hoang tưởng... song
song hiện diện ở tư thế "thừa thắng xông lên" mà không sợ còi việt vị
trên đủ các phương tiện truyền thông công vụ hoặc tư nhân. Những bài
bình luận về tác giả tác phẩm rất rộng rãi lời khen và ồn ào chữ nghĩa
không thua gì các quảng cáo thực phẩm chức năng trên tivi. Câu lạc bộ
thơ vốn là nơi tập hợp rộng rãi những ai thích thơ cũng tự đặt ra huy
chương Vì sự nghiệp thơ ca Việt Nam và trao tặng ngang với nghi thức
trao huy chương Vì Sự nghiệp Y tế, Vì Sự nghiệp Giáo dục của các bộ
chuyên môn trong chính phủ. Lạm phát thành mất giá. Hậu quả là bạn đọc
không tin vào phê bình thơ, "huy chương thơ" đã đành mà thờ ơ luôn cả
với thơ.
Kể lể cho đủ các hiện tượng
nghịch lý thì dài lắm, nhưng chỉ bấy nhiêu thôi cũng cho thấy tình hình
sáng tác lẫn thẩm định thơ đang ở mức báo động, có người gọi đó là tình
trạng loạn chuẩn. Gọi thế cũng có lý, cả lý hay lẫn lý dở. Hay ở chỗ
nhiều chuẩn thì hơn là chỉ một chuẩn, còn dở là nhiều nhưng loạn. Điều
cần làm lúc này lại là khảo sát nguyên nhân và giải quyết hiện trạng
loạn ấy, cốt sao giúp cho người yêu thơ chọn được các tập thơ đáng đọc,
nên đọc và giúp cho người làm thơ tìm ra độc giả tri kỷ của mình.
Những dòng viết này là lời đề
đạt và cũng là lời tự thú, nảy sinh từ một công việc mà tôi theo đuổi đã
tới nửa thế kỷ, mong các bạn độ lượng cho nếu có những quan sát nào
chưa thấu đáo.
1.
Việc thẩm định thơ của ban giám khảo một số loại giải thưởng chưa chính
xác dẫn đến việc biểu dương những tập thơ, những tác giả không thật sự
có tài năng.
Mới đầu công chúng thơ còn có
phản ứng tranh luận, sau rồi mọi người thất vọng, thờ ơ. Giải thưởng mất
chức năng phát hiện nhân tài, đương nhiên dẫn đến nhiều cách bình giá
khác, cách phát hiện khác.
Phẩm chất ban giám khảo, bao
gồm năng lực chuyên môn, sự trung thực của từng thành viên giám khảo và
phương pháp làm việc của toàn ban giám khảo. Hiện nay việc biểu lộ ý
kiến thường bằng bỏ phiếu kín và kết quả thuộc về người được nhiều phiếu
thuận.
Dùng phiếu kín giúp cho người
chấm được độc lập trong nhận định và hoàn toàn tự do bộc lộ ý kiến của
mình. Nhưng cũng có một bất lợi là họ không chịu trách nhiệm về phẩm
chất thẩm định của mình. Một ai đó không có năng lực đánh giá thơ hoặc
bị chi phối từ cảm tính yêu ghét hay từ lợi ích nhóm, lá phiếu thẩm định
của họ vẫn nguyên giá trị hợp lệ và phẩm chất giám khảo của họ cũng xếp
ngang với mọi người.
Nhưng tại sao không có năng lực
đánh giá mà lại được mời làm giám khảo. Đây là hậu quả của một nhầm lẫn
kéo dài đã lâu. Đó là nhầm lẫn chức năng giữa ban tổ chức giải thưởng
và hội đồng thẩm định. Thí dụ giải thưởng cấp quốc gia do chủ tịch nước
ký tặng, ban tổ chức giải thưởng ở cấp chung khảo phải thuộc Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch do chính bộ trưởng làm trưởng ban. Luật hành chính
là phải như thế. Nhưng coi ông bộ trưởng là người có năng lực đánh giá
cao nhất về phẩm chất thơ của một tác phẩm hay một nhà thơ là bất cập,
trừ trường hợp ông Bộ trưởng vốn là một nhà thơ lớn hay nhà phê bình thơ
tin cậy. Việc đánh giá chất lượng thơ phải thuộc về một hội đồng thẩm
định, do ban tổ chức giải lập ra, tập hợp những người có chuyên môn tin
cậy về lĩnh vực này. Hội đồng thẩm định bằng các thao tác chuyên môn của
mình tạo nên kết quả thẩm định. Ban tổ chức giải sử dụng kết quả này
cùng các tiêu chí về nhân thân thí sinh và tôn chỉ mục đích của giải
thưởng để bỏ phiếu xếp loại.
Trước khi bỏ phiếu ở Hội đồng
chuyên môn hay ở Ban tổ chức giải đều qua thảo luận công khai, các thành
viên đều phải có ý kiến và có bản nhận xét để lưu lại trong hồ sơ giải.
Nội dung bản nhận xét phải đồng nhất với ý kiến lúc thảo luận và được
biểu lộ trong phiếu kín. Yêu cầu này thể hiện phẩm chất trung thực của
thành viên thẩm định. Loại trừ hiện tượng thảo luận công khai thì ủng hộ
nhưng khi bỏ phiếu kín lại phủ định.
Với giải thưởng hàng năm của
Hội Nhà văn, thành viên ban thẩm định chọn từ Hội đồng thơ có bổ sung
những hội viên ngoài hội đồng là những nhà thơ, nhà phê bình có nhiều
bài nhận định về thơ xác đáng trong năm đó. Ban tổ chức giải thì cấu tạo
từ Ban chấp hành, cố nhiên không phải là tất cả thành viên chấp hành,
và một số hội viên khác. Các ban này thay đổi nhân sự theo từng năm và
chỉ công khai danh tính khi công bố kết quả.
Trong những trường hợp cần thiết còn có thể lập hội đồng phản biện giúp cho chung khảo.
Căn cứ thành tựu văn học hiện
nay và các giải thưởng đã trao, có nên thu bớt lượng giải thưởng hiện
hành, nhất là các giải thưởng có tính quốc gia như giải Nhà nước và giải
Hồ Chí Minh? Vì cứ đà này thì không biết lấy người đâu ra mà tặng mãi.
2. Hội Nhà văn Việt
Nam, thông qua các cơ quan ngôn luận của mình, phải tạo được diễn đàn
công khai lôi cuốn các nhà chuyên môn bộc lộ các quan điểm sáng tác và
bình luận thơ có phẩm chất khoa học, gắn bó với đời sống xã hội, thể
hiện dấu ấn tâm hồn dân tộc, đồng hành chia sẻ với vui buồn, bức xúc của
cộng đồng.
Triệt tiêu các mưu toan bè
phái, những lợi ích nhóm chật hẹp, lạm dụng chiêu bài hội nhập để nông
nổi sùng ngoại vô lối, lai căng, lập dị, từ bỏ tinh hoa thơ ca dân tộc
và nhu cầu tinh thần của bạn đọc đương thời. Hậu quả của thời gian bao
cấp tư tưởng, cách bức với thơ văn toàn thể nhân loại, quả có gây nên
tâm lý hốt hoảng khi tiếp xúc với các trào lưu thơ và phê bình của thế
kỷ thứ XX. Một số công trình nghiên cứu thơ dưới ảnh hưởng của các trào
lưu hình thức Nga, bác ngữ Đức, ý thức Thụy Sĩ hay các học thuyết phân
tâm, hiện sinh, các đề xuất hậu hiện đại, tân hình thức... là những việc
cần làm. Nhưng cần chủ động lựa chọn, đồng hóa người làm phong phú bản
sắc của mình hơn là ồn ào, nông nổi tự lạc mình trong bối cảnh lưu vong
mất gốc. Việc làm mất bạn đọc trong một số thể nghiệm thơ rập khuôn
ngoại lai vừa qua chỉ có thể biểu dương về tinh thần tìm đường mà chưa
thể khẳng định thành tựu. Không nản chí, càng không nên đả kích. Trong
lĩnh vực sáng tạo, người tìm đường thành công cố nhiên được biểu dương
nhưng người tìm mà không đến đích, tình nguyện làm viên đá lát đường cho
người khác thành công, cũng rất đáng được biết ơn. Điều cần làm là sự
bàn bạc, chọn hướng đúng, thu hẹp những ngộ nhận, những hoang tưởng lầm
lạc. Thể nghiệm nào tách thơ khỏi xã hội, khỏi nhu cầu của bạn đọc, thủ
tiêu phẩm chất giao lưu của ngôn ngữ, dù dưới chiêu bài nào, đều dắt thơ
vào tự diệt. Hội Nhà văn Việt Nam phải có trách nhiệm trước bạn đọc và
bạn viết trên diễn đàn ngôn luận của mình, bằng những quan điểm minh
bạch có tính khoa học tiên tiến, có phẩm chất dân tộc sâu sắc, phù hợp
với mong muốn của đông đảo bạn đọc và bạn viết.
3. Đất nước ta đã hơn
hai mươi năm thực hành quốc sách Đổi Mới, trong đó điều quan trọng là
đổi mới tư duy nhưng trong việc đánh giá thành tựu của nền thơ cách mạng
chưa thấy bộc lộ rõ ràng những thay đổi đó.
Việc đánh giá theo chuẩn mực
đổi mới, thật sự mang tính nghệ thuật, cần làm với tất cả các nhà thơ
tiêu biểu của nền thơ, từ những nhà thơ cách mạng hàng đầu như Tố Hữu
đến một loạt các nhà thơ lãng mạn đi theo cách mạng như Xuân Diệu, Huy
Cận, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư... rồi các nhà thơ
của các thế hệ sau đó. Kể cả các nhà thơ chậm nhập với cách mạng nhưng
có đóng góp vào văn mạch dân tộc. Đây là cuộc kiểm kê tài sản kho tàng
thơ hiện đại với những dụng cụ đo lường vừa có tính dân tộc vừa mang
phẩm chất nhân loại. Đây là cơ sở để chúng ta xác định chỗ đứng của mình
với bạn bè thế giới và cũng là nguồn mạch để chúng ta hợp lưu với nhân
loại. Đây là việc không đơn giản trong giai đoạn đang hỗn loạn chuẩn mực
này. Nhưng lại là việc cần làm, phải làm. Có xong việc này mới thông
việc khác. Tổ chức làm và cá nhân làm. Thái độ của Hội là khích lệ, hỗ
trợ, tạo thuận lợi. Dù có bùng nổ những mâu thuẫn trong giới thì cũng
chỉ nhất thời. Vả lại, không ai ép buộc chỉ có một hệ chuẩn đánh giá. Sự
giao lưu những khác biệt lại cho thấy sự đồng nhất trong trưởng thành,
tự tin của nền văn học. Đấy là bản lĩnh của chúng ta, bản lĩnh của cá
nhân mỗi nhà văn đến ban lãnh đạo Hội và đường lối văn học quốc gia của
chúng ta./.
Vũ Quần Phương
(Nguồn: Văn nghệ Công an)