Phẩm cách người nghệ sĩ
Nguyễn Đỗ Cung là người có lòng yêu nước trong sáng, không phải do
được giác ngộ, mà xuất phát từ lòng tự ái dân tộc của bản thân. Khi hiệu
trưởng đầu tiên của Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương là Victor
Tardieu qua đời, nghệ sĩ điêu khắc Jonchère được bổ nhiệm thay thế.
Trước khi lên tàu sang Việt Nam, Jonchère đã tỏ rõ thái độ của kẻ thực
dân, miệt thị các nghệ sĩ bản xứ. Ông ta đã tuyên bố đi chuyến này chỉ
để đào tạo “những người thợ chứ không phải những người nghệ sĩ”. Cảm
thấy như bị xúc phạm tới lòng tự trọng, danh dự, Nguyễn Đỗ Cung đã cùng
với họa sĩ Trần Văn Cẩn, Hoàng Lập Ngôn, Lương Xuân Nhị (có tài liệu nói
cả Lưu Văn Sìn) cùng thảo một bức thư phản đối và ký tên tại ngay nhà
của Lương Xuân Nhị. Bức thư được đăng trên Báo Ngày nay (1939) đưa ra
những bằng chứng và lý lẽ chứng minh tài năng của người Việt Nam qua các
công trình kiến trúc cổ, cũng như các tác phẩm sau này. Thấy Nguyễn Đỗ
Cung có tư tưởng chống Pháp, Jonchère đã đuổi, không cho ông được lui
tới trường.
Tác phẩm khắc gỗ “Từ Hải”
|
Cũng chính từ lòng tự hào, trân trọng trước tài năng của các họa sĩ
Việt Nam, ông Viện trưởng Viện Mỹ thuật Nguyễn Đỗ Cung đã có chủ trương
tìm mua lại các tác phẩm của các họa sĩ của Trường cao đẳng Mỹ thuật
Đông Dương đang còn lưu lạc ở nhiều nơi. “Chính ông viện trưởng đã “cứu”
các tác phẩm hội họa Đông Dương” - nhà phê bình mỹ thuật Nguyễn Hải
Yến, người nhận nhiệm vụ tìm lại các bức tranh, nhớ lại. Bởi nếu như ông
không đưa ra chủ trương kịp thời, thì các tác phẩm quý giá này đã có
thể bị bán hết ra nước ngoài.
Lòng yêu nước sớm thôi thúc Nguyễn Đỗ Cung tham gia cách mạng, sáng
tác phục vụ các cuộc kháng chiến. Ông là người có vinh dự có hai lần
được diện kiến, vẽ chân dung Bác Hồ. Lần đầu tiên vào năm 1946, họa sĩ
Nguyễn Đỗ Cung cùng họa sĩ Tô Ngọc Vân, nhà điêu khắc Nguyễn Thị Kim đã
tới Bắc Bộ phủ trước ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường sang Pháp dự
Hội nghị Fontainebleau, lần thứ hai là vào năm 1954. Nhiều tác phẩm sau
Cách mạng Tháng Tám của Nguyễn Đỗ Cung đang được lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ
thuật Việt Nam, nhưng đáng tiếc là hầu hết các tác phẩm trước đó của
ông đã bị thất lạc hoặc hư hỏng hết. Để đánh giá về tài năng, con đường
hội họa của Nguyễn Đỗ Cung, sẽ trọn vẹn hơn nếu nhìn nhận các tác phẩm
thuộc cả hai thời kỳ sáng tác, khi ông luôn thích các khuynh hướng hội
họa mới, và khi chỉ trung thành với khuynh hướng hiện thực để tập trung
thể hiện nội dung tuyên truyền.
Tác phẩm bột màu “Du kích La Hay tập bắn”
|
Với ông, sáng tác (trong thời kỳ sau Cách mạng Tháng Tám) hay giữ vị
trí Viện trưởng Viện Mỹ thuật chỉ là cách ông cống hiến cho đất nước,
nhân dân. Tuy chỉ làm nhiệm vụ trong thời gian ngắn (7 năm), nhưng ông
luôn được nhắc đến như người có công đầu trong việc tạo dựng nên Viện Mỹ
thuật hay Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, và hơn nữa là công việc giữ gìn
nền mỹ thuật Việt Nam.
Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung (1912 - 1977) sinh ra trong gia
đình có truyền thống Nho học ở Hà Nội, cha ông là danh sĩ Nguyễn Đỗ Mục.
Ông đã để lại nhiều tác phẩm rất nổi tiếng trong nghệ thuật Việt Nam
thế kỷ 20: Du kích La Hay tập bắn, Cổng làng, Cổng thành Huế, tranh bìa
cho tập Xuân Thu nhã tập, Từ Hải... nhiều minh họa độc đáo trên Phong
hóa, Ngày nay, nhất là Trung Bắc chủ nhật. Ông được tặng thưởng Huân
chương Lao động hạng nhất, Huân chương Kháng chiến hạng ba; năm 1996,
ông được nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ
thuật.
|
Ngọc An/Thanhnien